Luận văn công ty hợp danh

 Luận văn công ty hợp danh

 1. Thế nào là công ty hợp danh?
Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp (DN) Việt nam 2005 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:

 Phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên có thể có thành viên góp vốn.

 Thành viên hợp danh (TVHD) phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ công ty.

 Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.

 Công ty Hợp Danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (ĐKKD).

 Trong quá trình hoạt động, công ty Hợp Danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.

 2. Phân loại
Nếu căn cứ vào những đặc điểm trên thì CTHD theo Luật doanh nghiệp có thể được chia ra làm 2 loại:

 – Công ty hợp danh chỉ gồm những thành viên hợp danh.

 – Công ty hợp danh có cả TVHD và thành viên góp vốn (TVGV). Nhưng 2 “loại” này lại được quy định chung vào với nhau, không tách bạch. Điều này thực sự không hợp lý vì 2 loại này tuy gần như hoàn toàn giống nhau về quy chế pháp lý nhưng trong thực tế sẽ phát sinh những điểm không thỏa đáng, nhất là trong việc giải thể của công ty. Điều này đã chứng tỏ sự cứng nhắc của pháp luật hiện hành.

 3. Nguồn gốc công ty hợp danh
Công ty Hợp Danh (CTHD) là một trong những hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty.

 Khái niệm về “hợp danh” bắt đầu xuất hiện và tồn tại từ khi con người bắt đầu hợp tác với nhau. Khái niệm hợp danh xuất hiện từ thời Babylone, Hy Lạp và La Mã cổ đại. Đạo Luật Hammurabi năm 2300 (TCN) cũng đã có chế định về hình thức hợp danh. Khái niệm hợp danh theo Đạo Luật Justinian của đế chế La Mã cổ đại vào thế kỷ VI, xét về bản chất không có sự khác biệt trong pháp luật hiện nay. Sau đó, đến các thời kì Trung đại, đến cuối thế kỉ XVII, rồi ở Thụy Điển, dần dần hình thành hình thức “hợp danh” rõ ràng hơn. Đến cuối thế kỉ XVII, rồi ở Thụy Điển, dần dần hình thành hình thức “hợp danh” rõ ràng hơn.

 Năm 1776, Mỹ giành được độc lập và áp dụng hệ thống luật thông lệ của Anh. Từ đó, luật pháp về Công ty Hợp Danh bắt đầu được áp dụng ở Mỹ. Đến đầu thế kỷ XIX, CTHD trở thành loại hình kinh doanh quan trọng nhất ở Mỹ.

 Ngày nay, hệ thống pháp luật thông lệ điều chỉnh Năm 1776, Mỹ giành được độc lập và áp dụng hệ thống luật thông lệ của Anh. Từ đó, luật pháp về Công ty Hợp Danh bắt đầu được áp dụng ở Mỹ. Đến đầu thế kỷ XIX, Công ty Hợp Danh trở thành loại hình kinh doanh quan trọng nhất ở Mỹ.

 Công ty Hợp Danh cũng là một trong những loại hình công ty điển hình được quy định trong bộ luật thương mại của Pháp từ năm 1807.

 Ngày nay, hệ thống pháp luật thông lệ điều chỉnh, Công ty Hợp Danh được thay thế bằng đạo luật Công ty Hợp Danh hay còn gọi là Luật thống nhất về Công ty Hợp Danh (Uniform Partnership). Thêm nữa Công ty Hợp Danh được hình thành và phát triển từ những nguyên tắc của chế định đại diện (agency) xuất phát từ những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường về liên kết kinh doanh; tập trung và tích tụ tư bản ở những mức độ và dưới những dạng thức khác nhau.

 Việt Nam thì ngược lại ,loại hình công ty này ra đời muộn do điều kiện kinh tế, lịch sử, xã hội….Vốn là 1 nước trọng về nông nghiệp nên trước kia không coi trọng hoạt động thương mại và sau đó lại trải qua một thời gian dài thực hiện kinh tế tập thể.

 Cuối thế kỷ XIX, Pháp áp dụng 3 Bộ Luật: Dân Luật Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ vào Việt Nam cho nên xuất hiện các hình thức Doanh Nghiệp tư nhân, công ty Trách nhiệm hữu hạn và hình thức, khái niệm Công ty Hợp Danh đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam với hình thức Hội buôn.

 Năm 1954, trước Nghị quyết Đại hội lần VI của Đảng, miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo thì các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận. Pháp luật về công ty nói chung và CTHD nói riêng thời kỳ này không tồn tại, Nhà nước cũng chưa có những định hướng về lĩnh vực này.

 Miền Nam, trước 1975, loại hình CTHD được ghi nhận trong Bộ Luật Thương Mại, cơ bản giống những quy định của Pháp luật Pháp. Đến thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần đến Nghị quyết lần VI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần 2 của BCH TW Đảng công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế cá thể và tư doanh trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã cho ra đời Luật công ty 1990, Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật doanh nghiệp 1999. Từ 4 điều luật cũ kỹ của Luật doanh nghiệp 1999 (ban đầu là 12 điều trong Dự thảo nhưng đã bị loại bỏ gần hết khi đưa ra Quốc hội thông qua, cũng bởi hình thức của nó quá mới mẻ) đến Luật doanh nghiệp 2005 với 11 điều, hi vọng cung cấp cho giới thương nhân thêm một mô hình để lựa chọn cho phù hợp với ý tưởng kinh doanh của họ.

 Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê , chạy spss thuê , viết thuê assignment , thuê viết tiểu luận giá rẻ

 4. Nét đặc thù trong bộ máy tổ chức
4.1. Hội đồng thành viên
Cơ quan quản lý cao nhất trong công ty hợp danh đó chính là Hội đồng thành viên.

 Cũng như những tổ chức kinh tế khác, công ty hợp danh cũng là một pháp nhân có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có sự phân công và điều hành trong hoạt động kinh doanh. Nhưng đồng thời, do là loại hình công ty đối nhân nên việc tổ chức nội bộ và quản lý trong công ty hợp danh mang nhiều nét khác biệt và đặc trưng so với các loại hình doanh nghiệp khác.

 Do tính an toàn pháp lý đối với công chúng rất cao, mặt khác các thành viên thường có quan hệ mật thiết về nhân thân nên việc quản lý công ty hợp danh chịu rất ít sự ràng buộc của pháp luật.Về cơ bản các thành viên có quyền tự thỏa thuận về việc quản lý, điều hành công ty.Tuy nhiên, quyền quản lý công ty hợp danh chỉ thuộc về các thành viên hợp danh, thành viên góp vốn không có quyền quản lý công ty.Cơ cấu tồ chức quản lý công ty hợp danh do các thành viên do các thành viên hợp danh thỏa thuận trong điều lệ công ty.

 Cơ quan quản lý cao nhất trong công ty hợp danh đó chính là Hội đồng thành viên. Luật Doanh nghiệp 2005 đã có nhiều tiến bộ khi quy định hội đồng thành viên trong công ty hợp danh bao gồm tất cả các thành viên: “ Tất cả thành viên hợp lại thành Hội đồng thành viên” (Khoản 1 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2005), tức là cả thành viên hợp danh và cả thành viên góp vốn, chứ không chỉ có mỗi thành viên hợp danh mới được tham gia vào Hội đồng thành viên như quy định trước đây tại Nghị định 03/2000/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 1999. Có thể nói, Luật Doanh nghiệp 2005 đã mở rộng hơn cơ cấu của Hội đồng thành viên của công ty hợp danh so với các văn bản trước đó, khi mà ghi nhận cả vai trò của loại thành viên góp vốn trong cơ quan quản lý cao nhất này.

 Sự khác biệt đặc thù của Hội Đồng Thành Viên Công ty Hợp Danh:

 – Hội đồng thành viên trong công ty hợp danh không giống với Hội đồng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn.

 Các thành viên của Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn đều có quyền tham gia biểu quyết, thảo luận về các vấn đề quan trọng của công ty. Nhưng ở công ty hợp danh, trong Hội đồng thành viên, chỉ có các thành viên hợp danh mới có quyền quyết định các vấn đề lớn của công ty, còn thành viên góp vốn tuy được tham gia vào Hội đồng thành viên nhưng không có quyền quản lý, điều hành công ty, không được tham gia thảo luận, quyết định các vấn đề quan trọng của công ty. Thành viên góp vốn chỉ được tham gia vào những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ, còn những vấn đề chung quan trọng của công ty thì chỉ có thành viên hợp danh mới có quyền quyết định. Như vậy, có thể thấy pháp luật cho phép thành viên góp vốn được tham gia vào Hội đồng thành viên của công ty hợp danh nhưng thực chất họ không có “ thực quyền”, tức là có mặt trong cơ quan quản lý nhưng lại không có quyền quản lý.

 4.2. Chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc
Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch đồng thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc( nếu Điều lệ công ty không có quy định khác). Chủ tịch Hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc có nhiệm vụ quản lý điều hành việc kinh doanh hàng ngày của công ty với tư cách là thành viên hợp danh, phân công phối hợp công việc kinh doanh giữa các thành viên hợp danh. Các nhiệm vụ khác do Điều lệ công ty quy định.

 Chủ tịch Hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước, đại diện cho công ty với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại.

 Sự khác biệt trong vai trò của người đứng đầu trong công ty Hợp Danh:

 Vai trò của người đứng đầu công ty hợp danh cũng có sự khác biệt so với vị trí, vai trò của người đứng đầu công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.

 Nếu Chủ tịch, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có một vị trí quan trọng so với các thành viên khác trong công ty, có quyền thực hiện những công việc kinh doanh của công ty nhân danh chức vụ của bản thân thì Chủ tịch, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong công ty hợp danh là một thành viên hợp danh và không có quyền cao hơn các thành viên hợp danh còn lại, không có quyền tự quyết định một vấn đề gì nếu không có sự thông qua của Hội đồng thành viên.

 Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty hợp danh chỉ có quyền điều phối các hoạt động kinh doanh của công ty nhưng không được tự quyết định mà phải trên cơ sở sự vạch sẵn, sự thoả thuận và nhất trí của tất cả các thành viên hợp danh. Nói cách khác, người nắm giữ các chức vụ quản lý trong công ty hợp danh đơn giản cũng chỉ là một thành viên hợp danh với những quyền và nghĩa vụ như bao thành viên hợp danh khác.

 

 

 tag: tnhh   dệt   may   than   vinamilk   logistics   bibica   gỗ   bảo   hiểm   thọ   chuyển   nhanh   thủy   bài   khí   thạc   sĩ   vật   liệu   tuyển   thiệu   kiểm   toán   marketing   online   điện   tử   sơn   sách   sữa   khoa   ma   trận   swot