Tìm Hiểu Lịch Sử – Nhà Tống

 Triều nhà Tống được chia thành hai giai đoạn riêng biệt: Bắc Tống và Nam Tống. Bắc Tống (北宋, 960-1127) là giai đoạn khi thủ đô của họ ở thành phố Biện Kinh (nay là Khai Phong) ở miền bắc và triều đình kiểm soát toàn bộ Trung Hoa. Nam Tống (南宋, 1127-1279) để chỉ khoảng thời gian khi nhà Tống đã mất quyền kiểm soát phía bắc cho người Nữ Chân nhà Kim, trong thời gian này triều đình nhà Tống lui về phía nam sông Dương Tử và lập kinh đô ở Lâm An (nay là Hàng Châu).

 1 – LỊCH SỬ BẮC TỐNG

 Binh biến Trần Kiều

 Quân chủ khai quốc của triều Tống là Triệu Khuông Dẫn, Triệu Khuông Dẫn nguyên là “Điện tiền đô điểm kiểm” (tức thống lĩnh cấm quân) của triều Hậu Chu, do có chiến công xuất chúng nên được Hậu Chu Thế Tông tín nhiệm, trở thành thân tín của hoàng đế. Năm Hiển Đức thứ 6 (959), Hậu Chu Thế Tông băng hà, Cung Đế kế vị khi còn nhỏ, Triệu Khuông Dẫn trong lòng có ý muốn thay thế. Tết năm Hiển Đức thứ 7 (960), bè đảng của Triệu Khuông Dẫn tạo tin tình báo giả rằng quân Liêu nam hạ, tể tướng Phạm Chất liền lệnh Triệu Khuông Dẫn suất quân khỏi kinh thành chống địch. Ngày ba tháng giêng, Triệu Khuông Dẫn đến đóng tại Trần Kiều dịch, tối hôm đó khi Triệu Khuông Dẫn đang ngủ say thì bị tướng sĩ dưới quyền khoác hoàng bào lên người (tức “Hoàng bào gia thân”), hô to “vạn tuế”, được lập làm Thiên tử, tức Tống Thái Tổ. Triều thần Hậu Chu khi biết tin thì trong thành đã rỗng không, chỉ có thể thừa nhận hiện thực. Hậu Chu Cung Đế bị buộc phải tốn vị. Triệu Khuông Dẫn từng giữ chức Quy Đức tiết độ sứ, trú tại Tống châu, trong thời kỳ Xuân Thu thì Tống châu là lãnh địa của nước Tống, do vậy định quốc hiệu là “Tống”, định đô tại Khai Phong, cải nguyên Kiến Long.

 Năm Kiến Long thứ nhất, Tống Thái Tổ bình định hai cuộc nổi loạn của Lý Quân và Lý Trọng Tiến. Nghe theo ý kiến của Triệu Phổ, Tống Thái Tổ hai lần tiến hành “bôi tửu thích binh quyền” vào tháng 7 năm Kiến Long thứ 2 (961) và tháng 10 năm Khai Bảo thứ 2 (969), tước đoạt quyền chỉ huy quân sự của các tướng quân nắm giữ trọng binh: Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Cơ, Cao Hoài Đức, La Ngạn Côi và các võ tướng địa phương, giao cho hư chức, chuyển sang dùng quan văn trị quân đội, đồng thời đem toàn bộ đại quyền quân sự và tài chính tập trung vào trung ương. Lưỡng Tống do vậy tránh được cục diện phiên trấn cát cứ như thời Đường. Tuy nhiên, quốc sách này khiến năng lực quân sự địa phương giảm thiểu, khiến triều Tống cuối cùng ở thế yếu trong chiến tranh với bên ngoài.

 Thu phục Trung Nguyên

 Sau khi ổn định vững chắc chính quyền, Tống Thái Tổ bắt đầu diệt trừ tàn dư cát cứ Ngũ Đại Thập Quốc, thống nhất thiên hạ. Sau khi thương thảo với Triệu Phổ, Tống Thái Tổ quyết định tuân theo sách lược “tiên nam hậu bắc”, ban đầu chiếm lấy sáu nước phương nam có kinh tế thịnh vượng để củng cố quốc lực, sau đó chuyển sang Bắc phạt Bắc Hán nguyên được Khiết Đan hỗ trợ. Trước tiên Tống Thái Tổ dùng kế “giả Ngu diệt Quắc” để công diệt Kinh Nam và chính quyền cát cứ Hồ Nam, sau đó lại tiêu diệt ba nước Hậu Thục, Nam Hán, Nam Đường. Tống Thái Tổ một lòng hy vọng khôi phục lãnh thổ phương bắc như thời Đường, thiết lập “phong thung khố” để trữ tiền tài vải vóc, nhằm sau này chuộc lại Yên Vân thập lục châu bị Thạch Kính Đường trao cho Khiết Đan khi xưa. Tháng tám năm Khai Bảo thứ 9 (976), Tống Thái Tổ một lần nữa tiến hành Bắc phạt, song đến ngày mười chín tháng mười cùng năm thì đột nhiên từ trần. sự nghiệp thống nhất Trung Nguyên tạm thời bị đình chỉ. Em trai Tống Thái Tổ là Triệu Quang Nghĩa kế vị, tức là Tống Thái Tông.

 Sau khi ổn định vững chắc đế vị, Tống Thái Tông kế tục sự nghiệp thống nhất. Sau đó, chính quyền cát cứ Thanh Nguyên quân tại miền nam Phúc Kiến, cùng nước Ngô Việt lần lượt quy hàng. Tống Thái Tông khiển đại tướng Phan Mỹ đem quân về phía bắc công kích đô thành Thái Nguyên của Bắc Hán, đánh lui viện binh Liêu, tiêu diệt Bắc Hán, kết thúc cục diện phiên trấn cát cứ kéo dàu gần hai trăm năm.

 Tháng năm năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 4 (979), Tống Thái Tông bất chấp phản đối của triều thần, thừa thế chiếm được Bắc Hán, từ Thái Nguyên xuất phát triển khai Bắc phạt. Ban đầu, quân Tống từng thu phục được Dịch châu và Trác châu tại Hà Bắc. Tống Thái Tông đắc ý, hạ lệnh vây đánh Yên Kinh, quân Tống cùng quân Liêu triển khai kích chiến bên bờ sông Cao Lương, Tống Thái Tông ra chiến trường, kiến quả trúng tên bị thương, buộc phải triệt thoái, Bắc phạt không đạt. Bảy năm sau, tức năm Ung Hy thứ 3 (986), Tống Thái Tông khiển năm vị đại tướng là Phan Mỹ, Dương Nghiệp, Điền Trọng Tiến, Tào Bân, Thôi Ngạn phân quân theo ba lộ đông trung tây, lấy đông lộ là chính để tiến hành Bắc phạt. Quân tây lộ và trung lộ tiên quân thuận lợi, song quân Đông lộ chủ lực nhiều lần chiến bại trước quân Liêu, đường tiếp lương bị cắt đứt, cuối cùng không thể tụ hợp với hai lộ trung tây, đại bại tại Kỳ Câu quan mà tan vỡ. Hai lộ trung và tây cũng chỉ có thể rút về nam. Sau đó, triều Tống nhiều lần thất bại trước người Đảng Hạng trong các chiến dịch Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên, Định Xuyên Trại, song do người Đảng Hạng chán chiến tranh nên nghị hòa với Tống. Tháng hai năm Thuần Hóa thứ 4 (993), tại Tứ Xuyên bùng phát khởi nghĩa nông dân dưới quyền Vương Tiểu Ba và Lý Tuân. Quân khởi nghĩa được nông dân ủng hộ, đến tháng 1 năm sau thì chiếm cứ Thành Đô, kiến lập chính quyền Đại Thục. Thái Tông khiển hai lộ đại quân đi thảo phạt, quân khởi nghĩa cuối cùng thất bại triệt để vào năm Chí Đại thứ 2 (996). Nhiều lần thất bại tại phòng tuyến biên thùy, cộng với bùng phát khởi nghĩa tại hậu phương cản trở Bắc Tống thu phục cương thổ, song chính sách của Tống Thái Tông vẫn không đổi là “trọng nội hư ngoại”.

 Bản thân Tống Thái Tông là người phong nhã, yêu thích thơ phú, chính phủ do vậy đặc biệt trọng thị sự nghiệp văn hóa, truyền thống trọng giáo của triều Tống do vậy được khởi đầu. Tống Thái Tông yêu thích thư pháp, giỏi sáu kiểu chữ thảo, lệ, hành, triện, bát phân, phi bạch, đặc biệt giỏi viết kiểu phi bạch, đồng tiền Thuần hóa nguyên bảo của triều Tống là do Tống Thái Tông tự thân đề tả.

 Sự kiện Tống Thái Tông tức vị hết sức kỳ lạ, là do sự kiện “Chúc ảnh phủ thanh”, triều dã tương truyền Quang Nghĩa mưu sát Thái Tổ để đoạt vị, nhằm đảm bảo tính hợp pháp của chính quyền, Tống Thái Tông vứt bỏ lời di mệnh của mẹ là Đỗ thái hậu, tức “Kim quỹ chi minh”. “Kim quỹ chi minh” khởi nguyên là lúc Đỗ thái hậu lâm chung có triệu Triệu Phổ nhập cung ghi lại di mệnh, muốn Tống Thái Tổ trước tiên truyền vị cho Quang Nghĩa, sau truyền lại cho Quang Mỹ (sau đổi tên thành Đình Mỹ), rồi truyền cho Đức Chiêu (trưởng tử của Tống Thái Tổ), và Thái Tổ đồng ý. Bức di thư này được cất trong hộp bằng vàng, do vật mà gọi là “Kim quỹ chi minh”. Tuy nhiên, Tống Thái Tông liền trước sau bức tử hoàng tử của Thái Tổ là Đức Chiêu và Đức Phương, còn biếm truất Đình Mỹ đến Phòng châu, hai năm sau Đình Mỹ từ trần. Trưởng tử của Tống Thái Tông là Nguyên Tá do đồng tình với Đình Mỹ nên bị phế, hoàng tử Nguyên Hy đột ngột từ trần, cuối cùng một hoàng tử khác là Nguyên Khản được lập làm thái tử, đổi tên là Hằng. Năm Chí Đạo thứ 3 (997), Tống Thái Tông băng hà, Lý hoàng hậu và đám hoạn quan Vương Kế Ân trù tính lập Nguyên Tá làm hoàng đế. Đương thời, tể tướng Lã Đoan xử trí thích đáng, Triệu Hằng thuận lợi kế vị, miếu hiệu là Chân Tông. Triều Tống bắt đầu bước vào thời kỳ yên ổn bảo tồn thành quả.

 Bắc Ngự Liêu Hạ

 Tống Chân Tông kế tục “Hoàng Lão chính trị, Vô sở tác vi” vào cuối thời Tống Thái Tông. Từ sau Bắc phạt thời niên hiệu Ung Hy, triều Liêu thường tấn công khu vực giao giới Tống-Liêu, đến năm Cảnh Đức thứ 1 (1004) cuối cùng diễn biến thành chiến tranh xâm chiếm đại quy mô. Tể tướng Khấu Chuẩn cực lực chủ trương kháng chiến, kết quả Tống Chân Tông thân chinh, sĩ khí quân Tống phấn chấn cao độ, giao chiến ác liệt với quân Liêu dưới thành Thiền châu, quân Liêu cầu hòa. Trải qua nhiều lần giao thiệp, hai triều đại nghị hòa thành công. Nội dung chủ yếu của hòa ước là: Mỗi năm Tống trao cho Liêu 20 vạn xấp lụa, mười vạn lượng bạc, hai bên là quốc gia huynh đệ, sử gọi hòa ước này là “Thiền Uyên chi minh”. Qua các thời đại, quan điểm phê bình hòa ước là chủ đạo, nhận định mục đích chiến lược là thu hồi Yên Vân thập lục châu chưa đạt được, bên thắng lợi quân sự hàng năm phải dùng một lượng của cải lớn để đổi lấy hòa bình, là điều sỉ nhục. Những quan điểm đồng tình thì nhận định bản thân việc đánh lui quân Liêu nam xâm đã là thắng lợi, thời Tống kinh thế phát đạt, gánh nặng theo hòa ước không quá lớn, khó có thể nói là điều ước ép buộc.

 Sau đó, Khẩu Chuẩn dần dần thất sủng, cuối cùng bị bãi chức tể tướng. Tống Chân Tông bắt đầu tin dùng nịnh thần Vương Khâm Nhược. Vương Khâm Nhược thường đón trước ý của Tống Chân Tông, biết rõ Tống Chân Tông hy vọng thiên hạ xuất hiện một cảnh tượng cát tường an lạc, do vậy cùng tể tướng Vương Đán liên thủ, chế tạo tượng “tường thụy” tại các địa phương, cực lực cổ xúy Tống Chân Tông phong thiền, rất trúng ý Chân Tông. Năm Đại Trung Tường Phù thứ 1 (1008), Tống Chân Tông lần lượt ba lần phong thiền trong một năm, làm tổn hạo nghiêm trọng dân lực. Tống Chân Tông và Lưu hoàng hậu không có hoàng tử, Tống Chân Tông tình cờ một lần lâm hạnh thị nữ Lý thị của Lưu hoàng hậu, kết quả Lý thị vào năm Đại Trung Tường Phù thứ 3 (1010) sinh được một con trai tên là Triệu Thụ Ích. Sau đó, Lưu hoàng hậu và Dương Thục phi cùng nuôi dưỡng hài tử này. Trung thu năm Thiên Hi thứ 2 (1018), Tống Chân Tông chính thức phong Triệu Thụ Ích là Thái tử, đổi tên thành Triệu Trinh. Năm Càn Hưng thứ 1 (1022), Tống Chân Tông băng hà. Thái tử Triệu Trinh kế vị, Lưu hoàng hậu được tôn là Hoàng thái hậu và tạm thời quản lý đại sự quốc gia cho đến khi Tống Nhân Tông Triệu Trinh thành niên. Từ đây bắt đầu thời đại 11 năm Lưu Thái hậu “thùy liêm thính chính” (buông rèm nghe quốc sự). Giai đoạn đầu chấp chính, Tống Nhân Tông vẫn nằm dưới bóng của Lưu thị, đến khi Lưu thị từ trần thì Tống Nhân Tông mới thi hành lý tưởng của mình.

 Lý Nguyên Hạo xưng đế vào năm Đại Khánh thứ 3 (1038), lập quốc Tây Hạ, sau đó giữa Tống và Hạ bùng phát chiến tranh liên tục nhiều năm, quân Tống nhiều lần chiến bại. Chiến tranh Tống-Hạ chủ yếu trải qua năm thời kỳ, tức thời kỳ Tống Nhân Tông-Hạ Cảnh Tông, thời kỳ Tống Anh Tông-Hạ Nghị Tông, thời kỳ Tống Thần Tông-Hạ Huệ Tông, thời kỳ Tống Triết Tông-Hạ Sùng Tông, thời kỳ Tống Huy Tông-Hạ Sùng Tông. Việc quân Tống bất lợi trong chiến tranh Tống-Hạ khiến triều Liêu thừa cơ tăng áp lực, dẫn đến phát sinh “Trọng Hy tăng tệ”. Sau khi gặp bất lợi trong chiến tranh với Tây Hạ, Tống Nhân Tông bãi miễn tể tướng Lã Di Giản, nhiệm dụng các danh thần Phạm Trọng Yêm, Phú Bật, Hàn Kì thi hành “Khánh Lịch tân chính”, thu được hiệu quả tốt; nhiệm dụng Bao Chửng quản lý kinh thành và ngự sử đài. Trên biên cương, triều Tống bình định cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao ở phía nam và sự khiêu khích gây hấn của Tây Hạ. Bắc Tống tiến vào giai đoạn phồn vinh nhất kể từ khi lập quốc. Tuy nhiên, một vài nhân vật thuộc phái thủ cựu gọi những quan lại thuộc phái cải cách kéo bè kết cánh, bợ đỡ lẫn nhau, là bằng đảng. Tống Nhân Tông vẫn luôn chán ghét triều thần kết đảng mưu cầu tư lợi, những quan viên tân chính sau này có nhiều người bị biếm làm quan địa phương, “Khánh Lịch tân chính” ngắn ngủi đến đây kết thúc.

 Sau khi Tống Nhân Tông từ trần vào đầu năm 1063, Triệu Thự kế vị, tức Tống Anh Tông. Anh Tông là cháu nội của Thương vương Triệu Nguyên Phần-em trai Tống Chân Tông. Năm Gia Hựu thứ 7 (1062), Triệu Thự được lập làm hoàng thái tử. Tống Anh Tông nhiều bệnh tật, triều chính ban đầu do Tào thái hậu quản lý, từ tháng 5 năm Trị Bình thứ 1 (1064) thì Tống Anh Tông mới bắt đầu thân chính. Anh Tông thân chính gần nửa tháng thì lại bùng phát “Bộc nghị”, tranh luận đến 18 tháng. Sự kiện là do tể tướng Hàn Kỳ đề thỉnh thảo luận vấn đề danh phận của sinh phụ của Tống Anh Tông, trong triều do vậy phân thành hai phái, một phái nhận định cần phải gọi sinh phụ của Tống Anh Tông là “hoàng bá”, phái kia nhận định nên gọi là “hoàng khảo”. Cuối cùng, Tào thái hậu hạ chỉ gọi là “hoàng khảo” mới làm ngưng được tranh luận này. Về tổng thể, Tống Anh Tông là một vị quân chủ có thành tích, ông kế tục nhiệm dụng triều thần có năng lực của tiền triều, cũng mạnh dạn tìm kiếm người mới. Tống Anh Tống hết sức trọng thị biên soạn thư tịch, “Tư trị thông giám” cũng là do Tống Anh Tông phát động.

 Biến pháp và Đảng tranh

 Sau khi Tống Anh Tông mất vào năm 1067, trưởng tử là Triệu Húc kế vị, tức Tống Thần Tông. Trong thời gian Tống Thần Tông tại vị, chế độ được chế định vào đầu thời Tống đã sản sinh nhiều tệ nạn, dân sinh xuất hiện thụt lùi, còn có nguy cơ từ Liêu và Tây Hạ. Do vậy, Tống Thần Tông kiên định ý chí cải cách. Tống Thần Tông bắt đầu sử dụng đại thần trứ danh thuộc phái cải cách là Vương An Thạch thi hành tân pháp, bổ nhiệm làm ‘tham tri chính sự’. Tân pháp mà Vương An Thạch thi hành bao gồm “quân thâu”, “thanh miêu”, “miễn dịch”, “thị dịch”, “bảo giáp”, “bảo mã”, “phương điền quân thuế”.. Tuy nhiên, việc thực hành tân pháp gặp phải trở ngại mãnh liệt của phái bảo thủ do Tư Mã Quang lãnh đạo. Cộng thêm thiên tai không ngừng, quyết tâm thực hành tân pháp của Tống Thần Tông có dao động[tham 18] Năm Hi Ninh thứ 7 (1074), phương bắc gặp hạn hán nghiêm trọng, quan viên Trịnh Hiệp trình lên Tống Thần Tông một tranh về lưu dân, cảnh tượng trong tranh rất bi thương, Tống Thần Tông bị tác động mạnh về tâm lý. Ngày hôm sau, Tống Thần Tông liền hạ lệnh bãi 18 khoản trong tân pháp như “thanh miêu”, “phương điền”, “miễn dịch”. Mặc dù những pháp lệnh này được khôi phục không lâu sau đó, song giữa Tống Thần Tông và Vương An Thành bắt đầu không tín nhiệm nhau. Tháng tư năm Hi Ninh thứ 7, Vương An Thạch lần đầu tiên bị bãi chức tể tướng, đi cai quản Giang Ninh phủ. Sau đó, quan viên trong phái biến pháp là Lã Huệ Khanh tự ý làm bậy, Vương An Thạch do vậy được phục chức hồi kinh, song vẫn gặp trở ngại mãnh liệt từ phái bảo thủ. Tháng sáu năm Hi Ninh thứ 9 (1076), trưởng tử của Vương An Thạch từ trần, Vương An Thạch nhân việc này kiên quyết cầu thoái, Tống Thần Tông vào tháng mười lại bãi chức vị tể tướng của ông, về sau Vương An Thạch không luận chính sự.

 Hậu nhân có nhìn nhận khác nhau nhiều về “Hi Ninh tân pháp”, song dù sao hiệu quả của việc thi hành tân pháp không như kỳ vọng. Mặc dù việc thi hành tân pháp làm tăng đáng kể thu nhập tài chính quốc gia và diện tích canh tác, song lại gia tăng nghiêm trọng gánh nặng của bình dân. Trên phương diện quân sự, cải cách của Hi Ninh tân pháp dừng tại giải quyết phần ngọn, lực chiến đấu của quân đội không được cải thiện rõ ràng. Cộng thêm quan niệm của Vương An Thạch mới lạ, cần thời gian rất dài mới có thể thi hành toàn diện hơn 10 hạng mục cải cách, khiến biến pháp rơi vào khốn cảnh muốn đẩy nhanh song không đạt[tham 20] Thời kỳ sau thi hành tân pháp, độ lệch giữa pháp lệnh và chấp hành ngày càng lớn, một số biện pháp từ làm lợi cho dân biến thành nhiễu dân. Trong quá trình chấp hành tân pháp, việc dùng người không thích hợp còn là nguyên nhân sau cùng làm mất lòng dân, thành viên phái biến pháp như Lã Khanh, Tăng Bố, Lý Định và Sái Kinh đều là người có phẩm cách và cá tính chịu nhiều tranh nghị, bị cho là tiểu nhân. Hoàng Nhân Vũ (1918-2000) từng bình luận về cải cách này: “Trước thời chúng ta chín trăm năm, Trung Quốc đã có trù tính sử dụng biện pháp quản chế tài chính nhằm thao túng quốc sự, phạm vi và bề sâu chưa từng được đề xuất tại các khu vực khác trên thế giới.”

 Sau khi Vương An Thạch bị bãi chức, Tống Thần Tông kế tục sự nghiệp cải cách, hiệu là “Nguyên Phong cải chế”. “Nguyên Phong cải chế” dù cùng với “Hi Ninh biến pháp” được gọi chung là “Hi Phong tân pháp”, song cường độ thì không sánh được với “Hi Ninh biến pháp”. Sau cải chế, quốc lực dần mạnh lên, Tống Thần Tông đưa trọng điểm chuyển dịch sang đối ngoại, quyết tâm tiêu diệt Tây Hạ. Tháng năm năm Hi Ninh thứ 5 (1072), Tống Thần Tông bắt đầu tây chinh, giành được đại thắng, lòng tin của Thần Tông được cổ vũ rất nhiều. Chín năm sau, vào tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 4 (1081), Tây Hạ phát sinh chính biến, Tống Thần Tông nhân cơ hội này tiến hành tái chinh phạt Tây Hạ, không ngờ lại thảm bại, Tống Thần Tông do vậy mắc bệnh không khỏi được. Tháng một năm Nguyên Phong thứ 8 (1085), Tống Thần Tông lập lục tử Triệu Dung (sau đổi thành Hú) làm thái tử. Mặc dù tân pháp do Tống Thần Tông ban bố tạm thời bị mẫu hậu là Cao thái hậu phế, song không lâu sau lại dần dần được khôi phục, trong đó không ít biện pháp vẫn duy trì đến thời kỳ Nam Tống. Sau khi Tống Thần Tông băng hà, Cao thái hậu “thùy liêm thính chính”, kiềm chế nghiêm khắc Tống Triết Tông Triệu Hú mới kế vị. Cao thái hậu tin dùng phái bảo thủ do Tư Mã Quang lãnh đạo, thờ ơ với Tống Triết Tông, kết quả dẫn đến phát sinh đối kháng nghiêm trọng giữa hai phe tân và cựu, đó là “Nguyên Hựu đảng tranh”. Sau khi Tống Triết Tông thân chính, ông giáng chức thành viên cựu đảng, tin dùng tân đảng, sự nghiệp biến pháp do vậy có thể kế tục.

 Sự biến Tĩnh Khang

 Tống Triết Tông không có con trai kế tập, sau khi từ trần vào năm 1100 thì em là Triệu Cát kế vị, tức là Tống Huy Tông. Tống Huy Tông từ nhỏ đã yêu thích những việc bút mực, hội họa, cưỡi ngựa, thích hưởng lạc, không hứng thú với triều chính. Tống Huy Tông sinh hoạt xa xỉ mê say, ưa vào thanh lâu, tin lời đạo sĩ mà cho xây nhiều công trình kiến trúc, tại góc đông bắc của Khai Phong cho tạo Vạn Tuế Sơn, sau đổi thành Cấn Nhạc, chu vi hơn mười dặm, trong đó có Phù Dung trì, Từ khê, đình đài lầu các, có đủ loại chim thú. Tại khu vực Tô-Hàng của Lưỡng Chiết lộ, Tống Huy Tông cho lập Ứng phụng cục và Tạo tác cục, chuyên sưu tập kỳ hoa dị thạch tại phương nam, thổi bùng sự phẫn nộ của dân chúng, gây nên dân biến.[tham 24] Năm Trọng Hòa thứ 1 (1118), Hoàng Hà gây lụt, bốn lộ Hà Bắc, Kinh Đông chịu thủy tai, lưu dân mất nhà cửa, không thể mưu sinh, tại Hoài Nam Tống Giang phát động dân biến, quân khởi nghĩa từng chiếm cứ một số huyện Kinh Đông, Hoài Nam, Hà Bắc. Hai năm sau, tức năm Tuyên Hòa thứ 2 (1120), 36 thủ lĩnh khởi nghĩa bao gồm Tống Giang tiếp nhận chiêu an của triều đình, khởi nghĩa kết thúc. Ngày chín tháng mười cùng năm (1 tháng 11), Phương Lạp khởi nghĩa tại Thanh Khê (nay thuộc tây bắc Thuần An, Chiết Giang), nông dân các địa phương nghe tin thì hưởng ứng, không lâu sau phát triển đến vạn người. Tháng một năm sau, Tống Huy Tông phái Đồng Quán nam hạ chinh thảo, nhiều lần đánh bại nghĩa quân, cuối cùng bắt sống Phương Lạp trong tháng bảy.

 Tống Huy Tông ít quản triều chính, chính vụ đều giao cho nhóm triều thần mà đứng đầu là Sái Kinh, họ bị gọi là “Lục tặc”. Sái Kinh lấy danh nghĩa khôi phục tân pháp để áp chế phái khác, bài xích những người bất đồng. Sau khi Sái Kinh nắm quyền, ông ta tiến hành “Nguyên Hựu gian đảng án”, các đại thần chính trị bị đưa ra khỏi vị trí chính trị trung tâm. Bản thân Tống Huy tham đại công, sau khi thấy triều Liêu bị triều Kim tiến công thì vào mùa xuân năm Trọng Hòa thứ 1 (1116), ông phái khiển sứ tiết Mã Chính từ Đăng châu vượt biển đến Kim. Hai bên thương nghị cùng tiến công Liêu, Tống phụ trách tiến công Nam Kinh và Tây Kinh của Liêu; sau khi diệt Liêu thì đất Yên Vân sẽ trao cho Tống; của cải mà Tống từng trao cho Liêu hàng năm trước đây chuyển sang trao cho Kim, tức là Hải thượng chi minh. Tuy nhiên, sau đó quân Kim thừa thắng đem nhân khẩu Yên Kinh về bắc, đồng thời cướp bóc ba châu Doanh, Bình, Loan. Năm Tuyên Hòa thứ 7 (1125), quân Kim phân thành hai lộ đông và tây nam hạ công Tống. Tống Huy Tông kinh sợ, sau đó theo kiến nghị của Lý Cương mà truyền vị cho con là Khâm Tông Triệu Hoàn. Tống Khâm Tông miễn cưỡng bước lên hoàng vị, thiếu quyết đoán chiến hay hòa, trong tình hình không còn cách nào bèn để Lý Cương bảo vệ Đông Kinh, Lý Cương tạm thời ngăn chặn quân Kim.

 Năm Tĩnh Khang thứ 1 (1126), quân Kim nam hạ lần thứ hai, phân binh thành hai lộ tiến thẳng đến Khai Phong, thành Khai Phong bị quân Kim vây khốn. trong thành dịch bệnh lan truyền, không ít người chết đói và chết bệnh. Ngày Bính Thìn tháng 11 nhuận (9 tháng 1 năm 1127), Hoàn Nhan Tông Vọng, Hoàn Nhan Tông Hàn cùng chư tướng phá thành, bắt Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông. Ngày sáu tháng 2 năm Tĩnh Khang thứ 2 (20 tháng 3 năm 1127), quân Kim bắt các phi tần, công chúa, quý thích cùng tông phụ, tộc phụ, ca nữ tổng cộng vài nghìn người đến Ngũ Quốc thành (nay thuộc huyện Y Lan, Hắc Long Giang) của Kim, phế Huy Tông và Khâm Tông làm thứ nhân, sử gọi là Tĩnh Khang chi biến. Tại Ngũ Quốc thành, người Kim làm nhục Huy Tông và Khâm Tông, phong Huy Tông là “Hôn Đức công”, Khâm Tông là “Trọng Hôn hầu”, cả hai sau đó đều từ trần trên lãnh thổ Kim. Sau khi tiêu diệt Bắc Tống, Kim trước sau hỗ trợ Trương Bang Xương, Lưu Dự kiến lập hai chính quyền bù nhìn “Đại Sở” và “Đại Tề”.

 2 – LỊCH SỬ NAM TỐNG

 Kiến Viêm nam độ

 Trong Tĩnh Khang chi biến, triều Kim bắt được nhiều tông thất của triều Tống, song Khang vương Triệu Cấu may mắn tránh được. Năm Tĩnh Khang thứ 2 (1127), Triệu Cấu từ khu vực Hà Bắc ngày nay đến bồi đô Nam Kinh Quy Đức phủ (nay là Thương Khâu, Hà Nam), tức vị, tức Tống Cao Tông, cải nguyên Kiến Viêm. Sau đó, Tống Cao Tông dời về phía nam, vượt Hoài Hà và Trường Giang, đến năm Kiến Viêm thứ 3 thì đổi Giang Ninh phủ thành Kiến Khang phủ (nay là Nam Kinh), xem là hành đô, gọi là “Đông Đô”. Năm Thiệu Hưng thứ 1 (1131), thăng Hàng châu thành Lâm An phủ (nay là Hàng Châu), xem là “hành tại”, đến năm Thiệu Hưng thứ 8 thì chính thức định Lâm An là hành đô, Kiến Khang đổi thành lưu đô. Triều Kim tiến quân về phía nam, trực tiếp uy hiếp Lâm An, Cao Tông không còn đường thoát, chỉ có thể theo đường biển đào tị, phiêu bạt tới bốn tháng tại duyên hải Ôn châu. Do ở phương nam ẩm ướt sông ngòi dọc ngang, cộng thêm quân dân Nam Tống tích cực kháng chiến, chủ soái quân Kim là Ngột Truật quyết định triệt binh về bắc. Khi triệt thoái đến Trấn Giang, quân Kim bị tướng Tống Hàn Thế Trung cắt đứt đường lui, bị buộc phải tiến vào Hoàng Thiên Đãng. Quân Tống dùng binh lực chỉ tám nghìn mà vây khốn quân Kim đông tới mười vạn, sau 48 ngày bế tắc, cuối cùng quân Kim dùng hỏa công mới mở được lối thoát để triệt thoái, trên đường còn bị Nhạc Phi đả bại tại Kiến Khang, từ đó không dám vượt Trường Giang.

 Trong “Trung Hưng tứ tướng” của Nam Tống, nổi danh nhất là Nhạc Phi. Thông qua Bắc phạt, Nam Tống chiếm lĩnh một phần lãnh thổ của chính quyền Đại Tề do Kim đứng sau. Tống Cao Tông do nhiều nguyên nhân nên một lòng nghị hòa, cuối cùng không hợp với ý tưởng Bắc phạt của Nhạc Phi. Năm 1138, Tống và Kim lần đầu nghị hòa, Nam Tống dùng đầu hàng ngoại giao để thu hồi Hà Nam và Thiểm Tây. Năm Thiệu Hưng thứ 10 (1140), triều Kim xé bỏ hòa nghị, nhanh chóng công hạ Hà Nam và Thiểm Tây, đồng thời thâm nhập về phía nam. Do quân dân triều Tống tích cực kháng chiến, quân Kim cuối cùng đều thất bại khi tiến công Xuyên Thiểm, Lưỡng Hoài. Tháng bảy, tướng Kim là Ngột Truật thấy bất lợi khi tiến công về phía nam, chuyển sang tiến công Yển Thành, bị Nhạc Phi đả bại, lại chuyển sang tiến công Dĩnh Xương song cũng bại trước Nhạc Phi. Nhạc gia quân thừa thắng truy kích, từng đánh tới trấn Chu Tiên cách Khai Phong gần 45 dặm, Ngột Truật đào thoát khỏi Khai Phong, nghĩa quân các địa phương phương bắc lần lượt hưởng ứng. Đúng lúc này, Tống Cao Tông liên tiếp hạ 12 đạo kim bài thôi thúc Nhạc Phi đem quân về. Tháng mười một năm Thiệu Hưng thứ 11 (1141), Tống và Kim thông qua thư tín đạt thành “Thiệu Hưng hòa nghị”, hai bên lấy Hoài Thủy-Đại tán Quan (nay thuộc Bảo Kê, Thiểm Tây) làm biên giới. Tống cắt nhượng Đường châu, Đặng châu và hơn một nửa Thương châu, Tần châu do Nhạc Phi chiếm lĩnh, mỗi năm Tống tiến cống Kim 25 vạn lượng bạc, 25 vạn xấp lụa. Đêm trừ tịch cuối tháng chạp (27 tháng 1 năm 1142), Tống Cao Tông và Tần Cối dùng tội danh “mạc thu hữu” để giết Nhạc Phi cùng con là Nhạc Vân và bộ tướng Trương Hiến tại Lâm An. Thực hiện “Thiệu Hưng hòa nghị”, linh cữu của sinh phụ Tống Cao Tông là Tống Huy Tông và sinh mẫu được đưa về Nam Tống.

 Tống Cao Tông nhiệm dụng Tần Cối làm thừa tướng, Tần Cối trong những năm Tĩnh Khang từng chủ trương kháng Kim, sau bị người Kim bắt. Tháng mười năm Kiến Viêm thứ 4 (1130), Tần Cối về nam, ông theo chính sách đầu hàng, rất hợp với ý của Cao Tông. Tần Cối về Nam Tống gần ba tháng thì được phong làm phó tể tướng, sau tám tháng thì trở thành hữu thừa tướng. Do Tần Cối hết sức đề xướng “nam tự nam, bắc tự bắc”, mâu thuẫn với Cao Tông, nên sau một năm thì bị Cao Tông bãi miễn. Sau khi bị bãi chức tể tướng, Tần Cối ẩn mình, xem xét tình hình để hành động. Tháng năm năm Thiệu Hưng thứ 8 (1138), Tống Cao Tông lại bổ nhiệm Tần Cối làm hữu thừa tướng. Sau đó, Tần Cối bách hại các quan viên có ý kiến bất đồng với mình, liên hôn với ngoại thích, kết giao nội thần. Sau này, Tần Cối có quyền thế cực lớn, khiến Tống Cao Tông cảnh giác. Tống Cao Tông đích thân hạ lệnh, khiến cháu nội của Tần Cối mất chức trạng nguyên, quyền thế của Tần Cối dần giảm đi. Năm Thiệu Hưng thứ 25 (1155), Tần Cối bệnh trọng, trù tính để con kế thừa chức thừa tướng, song bị Tống Cao Tông phủ quyết, không lâu sau thì mất.

 Thiên an Nam Giang

 Sau khi Tần Cối từ trần, Tống Cao Tông một mặt đả kích dư đảng của Tần Cối, một mặt trọng dụng quan viên phái chủ hòa. Tống Cao Tông không có năng lực sinh dục, do vậy ông chọn tuyển chọn người kế thừa trong số hai hậu duệ nổi bật của Tống Thái Tổ là Triệu Viện và Triệu Cừ, Triệu Viện giành thắng lợi. Năm Thiệu Hưng thứ 32 (1162), Triệu Viện được lập làm thái tử, đồng thời đổi tên thành Triệu Thận. Năm Thiệu Hưng thứ 31 (1161), Hoàng Đế Hoàn Nhan Lượng của Kim tiến hành xâm chiếm phương nam, bị Ngu Doãn Văn đánh lui trong trận Thái Thạch. Lúc này triều Kim phát sinh nội loạn, Hoàn Nhan Lượng bị giết, quân Kim về bắc. Sự kiện này khiến Tống Cao Tông nảy sinh ý muốn thoái vị, đến tháng 6 năm Thiệu Hưng thứ 32, Tống Cao Tông hạ chiếu thoái vị, Thái tử Triệu Thận kế vị, tức là Tống Hiếu Tông. Tống Cao Tông tự xưng là Thái thượng hoàng, cư trú tại Đức Thọ cung, sau đó hết sức hưởng lạc, hoang phí. Ngày tám tháng 10 năm Thuần Hi thứ 12 (1187), Tống Cao Tông từ trần.

 Sau khi Tống Hiếu Tông tức vị, ông tiến hành cải cách triều chính, hết lức nỗ lực khôi phục, triều Tống tiến vào thời kỳ tương đối phục hưng, Tống Hiếu Tống giải oan cho Nhạc Phi, bắt đầu sử dụng nhân sĩ phái chủ chiến, một lòng muốn chiếm lĩnh Trung Nguyên. Tháng tư năm Long Hưng thứ 1 (1163), Tống Hiếu Tông lệnh Lý Hiển Trung, Triệu Hoành Uyên xuất binh Bắc phạt, Bắc phạt từng thu được thắng lợi, song do tướng lĩnh bất hòa cộng thêm tư tưởng khinh địch, cuối cùng thất bại. Sau đó, Tống Hiếu Tông bất đắc dĩ hòa đàm với Kim, vào tháng 12 năm Long Hưng thứ 2 (1164) thì hai bên chính thức ký kết hòa nghị, sử gọi là “Long Hưng hòa nghị”. Tuy nhiên, Tống Hiếu Tông không mất ý chí khôi phục Trung Nguyên, tiếp tục chỉnh đốn quân bị. Tuy nhiên, do nhóm tướng lĩnh chủ chiến bao gồm Ngu Doãn Văn từ trần, sự nghiệp Bắc phạt dang dở. Trên phương diện nội chính, Tống Hiếu Tông tích cực chỉnh đốn lại trị, trừ bỏ quan yếu kém, trừng trị tham ô, tăng cường tập quyền, trọng thị sản xuất nông nghiệp. Xét về tổng thể, tình hình nội chính triều Tống có sự thay đổi. Sau khi Tống Cao Tông mất, Tống Hiếu Tông ngày càng lãnh đạm với chính trị, cuối cùng quyết định nhượng vị cho con là Triệu Đôn vào năm 1189, tức là Tống Quang Tông. Tống Quang Tông kế vị không lâu thì mắc bệnh về tinh thần, hết sức bất kính với Hiếu Tông. Tháng bảy năm Thiệu Hi thứ 5 (1194), Hiếu Tông từ trần.

 Quang Tông có tính hay nghi kị, hết sức không tín nhiệm đại thần dưới triều Hiếu Tông, do vậy hai năm sau khi kế vị ngày càng điên loạn. Sau khi Hiếu Tông từ trần vào tháng 7 năm Thiệu Hy thứ 2, Tống Quang Tông không phục táng. Trong thành Lâm An hết sức hỗn loạn, cục thế bất ổn. Thành viên hoàng thất Tống là Triệu Nhữ Ngu và Triệu Ngạn Du bí mật mưu tính lập quân chủ mới. Cuối cùng, Thái hoàng thái hậu hạ chiếu, Quang Tông được tôn làm Thái thượng hoàng. Năm 1195, con trai Quang Tông là Triệu Khoách kế vị, tức là Tống Ninh Tông, Quang Tông từ trần sáu năm sau đó. Sách sử viết rằng Tống Ninh Tông “bất tuệ”, trí lực thấp kém. Triều đình của Tống Ninh Tông bị hai quyền thần là Hàn Thác Trụ và Sử Di Viễn khống chế.

 Nội ưu ngoại hoạn

 Đầu thời Tống Ninh Tông, Triệu Nhữ Ngu nhậm chức tể tướng, người này về chính trị vốn giữ gìn khí tiết tốt đẹp. Tuy nhiên, do thành viên hoàng thất nhậm chức tể tướng không hợp phép tắc từ trước, lại thêm Hàn Thác Trụ khích động, nên cuối cũng bị bãi chức tể tướng. Tuy nhiên, dân gian Nam Tống vẫn hết sức hoài niệm Triệu Ngữ Ngu, mỗi ngày trên cửa thành Lâm An đều có thơ văn điệu niệm. Nhằm triệt để thanh trừ ảnh hưởng của Triệu Nhữ Ngu, Hàn Thác Trụ mượn danh nghĩa học thuật, gây ra “Khánh Nguyên đảng cấm”, đem lý học gọi là “ngụy học”. Đương thời, đại thần lý học trong triều đại đa số phản đối Hàn Thác Trụ, Hàn Thác Trụ do đó tống khứ toàn bộ nhóm sĩ đại phu này khỏi triều đình. Khoảng năm Kháng Nguyên thứ 6 (1200), Hàn Thác Trụ thấy lý học đã không còn là mối uy hiếp, nên giải trừ đảng cấm. Đảng cấm không được lòng người, nhằm lung lạc sĩ nhân, Hàn Thác Trụ còn mượn danh nghĩa Bắc phạt để mê hoặc lòng người.[tham 35] Năm Khai Hy thứ 2 (1206), Hàn Thác Trụ thiếu thận trọng tiến hành “Khai Hy bắc phạt”, kết quả nhanh chóng thất bại. Thất bại của Bắc phạt khiến Hàn Thác Trụ trở thành mục tiêu bị công kích, địch thủ chính trị của Hàn Thác Trụ là Sử Di Viễn nhân cơ hội này cùng phái chủ hòa và phái phản đối Hàn Thác Trụ kết thành liên minh, triều Kim cũng yêu cầu giết Hàn Thác Trụ làm một điều kiện hòa đàm. Ngày ba tháng 11 năm Khai Hy thứ 3 (1207), nhóm Sử Di Viễn ngụy tạo mật chỉ, giết chết Hàn Thác Trụ ở cầu Lục Bộ, từ đó bắt đầu thời kỳ Sử Di Viễn chuyên chính. Sử Di Viễn và Dương hoàng hậu câu kết nắm hết đại quyền.

 Tống Ninh Tông vốn có tám hoàng tử, song đều chết yểu, do vậy lập Triệu Hoành-con của em họ là Nghi vương- làm thái tử. Triệu Hoành hết sức bất mãn trước việc Sử Di Viễn chuyên chính, do vậy Sử Di Viễn phế ngôi thái tử của Triệu Hoành, cải lập một thành viên xa trong hoàng tộc là Triệu Quân (Tống Lý Tông sau này) làm người kế thừa hoàng vị. Ngày ba tháng tám nhuận năm Gia Định thứ 11 (1224), Tống Ninh Tông từ trần, Triệu Quân kế vị, tức là Tống Lý Tông. Sau đó, Sử Di Viễn tiếp tục chuyên chính, Tống Lý Tông thi hành sách lược ẩn mình chờ thời. Tháng mười năm Thiệu Định thứ 6 (1233), Sử Di Viễn từ trần, Tống Lý Tông cuối cùng thoát khỏi bóng của Sử Di Viễn, sang năm sau cải niên hiệu thành Đoan Bình, thực thi một loạt cải cách, sử gọi là “Đoan Bình canh hóa”. Tống Lý Tông bài xích triệt để cựu đảng của Sử Di Viễn, triều chính từng có biến đổi. Đương thời, triều Kim từng bước diệt vong trước đế quốc Mông Cổ, chính sách đối ngoại trong triều đình Tống phân thành hai phái, một phái nhận định nên liên Mông kháng Kim, phái còn lại lấy đạo lý môi hở răng lạnh và kinh nghiệm từ “Hải thượng chi minh”, chủ trương viện Kim kháng Mông, biến Kim thành tường che chắn cho Nam Tống.

 Tháng chạp năm Thiệu Định thứ 5 (1232), Mông Cổ khiển sử thương nghị về việc Tống và Mông hợp tác giáp kích triều Kim, do chủ lực của triều Kim đã bị Mông Cổ diệt hết trong trận Tam Phong Sơn, nguy cơ vong quốc hiện rõ, đại thần đương triều của Tống đại đa số tán đồng liên Mông kháng Kim, chỉ có Triệu Phạm phản đối. Tống Lý Tông đáp ứng yêu cầu của Mông Cổ, Mông Cổ bằng lòng rằng sau khi diệt Kim sẽ đem Hà Nam giao cho Tống. Tuy nhiên, đây chỉ là hiệp định bằng miệng chứ không lưu thành văn kiện, gây nên hậu hoạn. Kim Ai Tông biết tin, cũng phái sứ tiết đến Tống trình bày lợi hại, hy vọng liên hiệp kháng Mông, song bị Tống Lý Tông cự tuyệt. Tống Lý Tông nhiệm mệnh Sử Tung Chi chủ quản công việc diệt Kim. Năm Thiệu Định thứ 6 (1233), quân Tống đánh chiếm Đặng châu. Năm Đoan Bình thứ 1 (1234), Thái châu bị chiếm, triều Kim diệt vong. Tướng Tống là Mạnh Củng đem di cốt của Kim Ai Tông về Lâm An, Tống Lý Tông đem di cốt cung phụng tại Thái miếu.

 Kháng cự quân Mông

 Sau khi triều Kim diệt vong, quân Mông Cổ triệt thoái về phía bắc, Hà Nam trống không, Tống Lý Tông có ý đồ chiếm cứ Đồng Quan, Hoàng Hà, thu phục Tam Kinh (Đông Kinh Khai Phong, Tây Kinh Lạc Dương, Nam Kinh Quy Đức), quang phục Trung Nguyên. Tháng năm năm Đoan Bình thứ 1 (1234), Tống Lý Tông nhiệm mệnh Triệu Quỳ làm chủ soái, Toàn Tử Tài làm tiên phong, hạ chiếu xuất binh đến Hà Nam. Ngày mười hai tháng sáu, Toàn Tử Tài thu phục Nam Kinh. Ngày năm tháng bảy, quân Tống tiến trú Khai Phong. Tuy nhiên, do lương thảo không đủ nên lỡ thời cơ, khi tiến công Lạc Dương bị quân Mông Cổ phục kích, tổn thất nghiêm trọng. Các lộ quân Tống toàn tuyến chiến bại và triệt thoái. “Đoan Bình nhập Lạc” thất bại, Tống do chiến dịch này mà tổn thất nghiêm trọng, lãng phí một lượng lớn tinh binh và vật tư, tạo cớ cho Mông Cổ xâm chiếm Tống sau này. Sau “Đoan Bình nhập Lạc”, Tống Lý Tông sao lãng chính sự, đắm chìm trong hưởng lạc, triều chính đại hoại.

 Năm Đoan Bình thứ 2 (1235), ba lộ quân Mông Cổ phân biệt xâm nhập Xuyên Thiểm Tứ lộ, Kinh Hồ Bắc Lộ và Hoài Nam Tây lộ, song đều bị đánh lui. Quân Mông không cam tâm, đến tháng 9 năm sau và năm tiếp đó lại phân thành ba lộ xâm nhập phương nam, quân tiền phong tiếp cận bờ bắc Trường Giang. Do quân Tống nỗ lực tác chiến, đả bại quân Mông, hơn một lần bẽ gẫy mưu tính của quân Mông là chiếm lĩnh Xuyên Thiểm Tứ lộ để vượt Trường Giang nam hạ. Sau đó, quân dân Tống dưới quyền chỉ huy của các tướng lĩnh kháng Mông như Vương Kiên, Mạnh Củng nhiều lần đánh bại quân Mông, khiến họ buộc phải đi đường vòng. Năm Khai Khánh thứ 1 (1259), Đại hãn của Mông Cổ là Mông Kha khi chinh chiến tại Hợp châu bị trúng tên của quân Tống rồi tử thương. Em trai Mông Kha là Hốt Tất Liệt đang giao chiến với quân Tống tại Ngạc châu, khi biết tin Mông Kha tử vong và em là A Lý Bất Ca chuẩn bị xưng hãn tại Hòa Lâm (Karakorum), quyết định chuẩn bị triệt quân để tranh ngôi đại hãn, quyền thần triều Tống là Giả Tự Đạo nhân cơ hội này cùng Hốt Tất Liệt nghị hòa, nhằm bảo đảm hòa bình. Hốt Tất Liệt trở về phương bắc tự lập làm hãn.

 Hai hoàng tử của Tống Lý Tông chết yểu, do vậy chọn con của em trai tên Triệu Dữ Nhuế là Triệu Kì làm hoàng tử. Do mẹ của Triệu Kì trong thời gian mang thai từng uống thảo dược phá thai, do vậy Triệu Kỳ sinh thiếu tháng. Tháng 6 năm Cảnh Định thứ 1 (1260), Tống Lý Tông hạ chiếu lập Triệu Kỳ làm thái tử. Ngày hai mươi sáu tháng 12 năm Cảnh Định thứ 5 (1264), Tống Lý Tông từ trần, Triệu Kì kế vị, tức là Tống Độ Tông. Sau khi kế vị, Tống Độ Tông không quản triều chính, Hữu thừa tướng Giả Tự Đạo do vậy chuyên quyền. Giả Tự Đạo kết đảng mưu tư lợi, bài xích những người bất đồng với mình, suốt ngày trong biệt thự tại Cát Lĩnh cùng thê thiếp nô đùa, do ông thích đấu dế, nên người đời gọi ông là “Tất suất tể tướng”, tức tể tướng dế. Giả Tự Đạo cấm chỉ báo tin chiến sự cho Tống Độ Tông. Tương Dương, Phàn Thành sau ba năm bị vây thì Tống Độ Tông mới biết được. Năm Hàm Thuần thứ 7 (1271), Hốt Tất Liệt tại Đại Đô (nay là Bắc Kinh) kiến quốc, hiệu là “Đại Nguyên”, kiến lập triều Nguyên. Ngày chín tháng 7 năm Hàm Thuần thứ 10 (12 tháng 8 năm 1274), Tống Độ Tông từ trần ở tuổi 35.[tham 39]Trước đó, ngày 14 tháng 3 năm 1273, Tương Phàn thất thủ sau khi Lã Văn Hoán dâng thành đầu hàng quân Nguyên.

 Hải chiến Nhai Môn và diệt vong

 Sau khi Tống Độ Tông từ trần, hoàng tử Triệu Hiển kế vị khi mới 4 tuổi, tức là Tống Cung Đế, triều Tống đương thời đã tiến vào trạng thái bế tắc. Mùa xuân năm Đức Hựu thứ 1 (1275), quân Nguyên công chiếm các trọng trấn về quân sự là An Khánh và Trì Châu, uy hiếp Kiến Khang, phòng tuyến Trường Giang tan vỡ. Triều đình Tống hết sức kinh hãi, các giới đều hy vọng Giả Tự Đạo có thể xuất chinh, kết quả quân Tống đại bại, Giả Tự Đạo bị giáng chức, trên đường đi nhậm chức thì bị Trịnh Hổ Thần sát hại. Ngày hai mươi tháng 11 năm Đức Hựu thứ 1, Thường Châu bị chiếm, quân Nguyên tàn sát người trong thành. Không lâu sau, tin Bình Giang bị chiếm cũng đến, người Lâm An lo sợ. Tháng giêng năm Đức Hựu thứ 2 (1276), thành Lâm An cử hành nghi thức thụ hàng ngày 4 tháng 2 năm 1276 – tròn 316 năm ngày nhà Tống thành lập. Tống Cung Đế thoái vị, Nam Tống mất. Tuy nhiên, anh của Tống Cung Đế là Triệu Thị và em là Triệu Bính được đại thần bảo hộ đào thoát khỏi Lâm An.

 Triệu Thị tức vị tại Phúc Châu, tức là Tống Đoan Tông, cải niên hiệu là Cảnh Viêm (1276). Tuy nhiên, nội bộ triều đình đấu tranh không ngừng, vào tháng 11 năm Cảnh Viêm thứ 1, quân Nguyên tới sát Phúc Châu, ngày mười lăm tháng mười một, quyền thần là Trần Nghi Trung, Trương Thế Kiệt hộ tống Triệu Thị và Triệu Bính đi thuyền về phía nam. Mùa xuân năm Cảnh Viêm thứ 3 (1278), tiểu triều đình đến Lôi Châu. Ngày mười lăm tháng tháng tư, Triệu Thị từ trần khi gần 11 tuổi, Lục Tú Phu và chúng thần tôn Triệu Bính làm hoàng đế, cải niên hiệu thành Tường Hưng (1278). Đến khi Lôi Châu thất thủ trước quân Nguyên, tiểu triều đình dời sang Nhai Sơn (nay thuộc Giang Môn, Quảng Đông). Tướng lĩnh quân Nguyên là Trương Hoằng Phạm lãnh quân truy kích, phát động tổng công kích Nhai Sơn, quân Tống không có năng lực chiến đấu, toàn tuyết thất bại, sử gọi là hải chiến Nhai Sơn. Triệu Bỉnh theo Lục Tú Phu và hơn tám trăm thành viên hoàng tộc Tống nhảy xuống biển tự vẫn, đến đây thế lực hoàng tộc triều Tống bị tiêu diệt triệt để.