Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12 là dấu mốc quan trọng trong tiến trình xây dựng phát triển hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam. Được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 11 năm 2008 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2009. Đánh dấu lần đầu tiên chính sách bảo hiểm y tế được pháp điển hóa trong một văn bản quy phạm pháp luật mang tính toàn diện.
Sự ra đời của luật không chỉ thiết lập nền tảng pháp lý cho triển khai bảo hiểm y tế trên phạm vi cả nước còn mở đường cho những cải cách sâu rộng trong ngành y tế để hướng tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.
Bối cảnh ra đời
Trước năm 2008 bảo hiểm y tế tại Việt Nam chủ yếu được điều chỉnh bằng các nghị định với thông tư thiếu tính thống nhất chưa đủ sức bao quát thực tiễn. Với sự gia tăng nhu cầu chăm sóc sức khỏe và yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người dân, việc ban hành một luật riêng về bảo hiểm y tế là bước đi cần thiết.
Luật Bảo hiểm Y tế 2008 ra đời trong bối cảnh Chính phủ đang thúc đẩy mạnh mẽ các chính sách an sinh xã hội, nhấn mạnh vai trò của y tế công cộng quyền tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản cho mọi người dân.
Những nội dung chính của Luật Bảo hiểm Y tế 2008
Đối tượng tham gia
Luật quy định bảo hiểm y tế là bắt buộc đối với một số nhóm đối tượng như người lao động hưởng lương, cán bộ công chức, hưu trí, trẻ em dưới 6 tuổi. Đồng thời khuyến khích tự nguyện đối với các nhóm dân cư còn lại tạo cơ sở để mở rộng độ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân.
Mức đóng và phương thức đóng
Mức đóng được tính theo tỷ lệ phần trăm thu nhập hoặc mức lương cơ bản tùy theo từng nhóm đối tượng. Phương thức đóng linh hoạt: theo tháng, quý hoặc năm, tùy điều kiện của người tham gia.
Đặc biệt Nhà nước hỗ trợ mức đóng cho các nhóm yếu thế như người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số, cư dân vùng khó khăn.
Quyền lợi bảo hiểm y tế
Người tham gia bảo hiểm y tế được quỹ bảo hiểm chi trả các chi phí khám chữa bệnh bao gồm:
-
Khám bệnh, chữa bệnh nội trú, ngoại trú
-
Phục hồi chức năng
-
Khám thai, sinh con
-
Một số dịch vụ kỹ thuật cao chi phí lớn
Mức hưởng dao động từ 80% đến 100% chi phí tùy theo nhóm đối tượng và cơ sở khám chữa bệnh.
Quỹ bảo hiểm y tế
Quỹ bảo hiểm y tế là quỹ tài chính công do Nhà nước tổ chức hình thành từ nguồn đóng góp của người tham gia và ngân sách nhà nước. Quỹ này được dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh và các chi phí quản lý vận hành hệ thống bảo hiểm y tế.
Quản lý và thực hiện
Luật quy định rõ trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Y tế, các cơ sở khám chữa bệnh, các cơ quan chức năng trong việc tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm y tế. Điều này giúp đảm bảo tính minh bạch, công bằng hiệu quả trong quản lý.
Tác động của Luật đối với xã hội
Sau khi có hiệu lực Luật Bảo hiểm Y tế 2008 đã nhanh chóng tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành vi của người dân. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế liên tục tăng đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa.
Các bệnh viện từng bước cải thiện chất lượng dịch vụ nhờ có nguồn tài chính ổn định từ quỹ bảo hiểm y tế. Đồng thời, công tác giám định, thanh toán, kiểm soát chi phí khám chữa bệnh được thực hiện chặt chẽ hơn giảm tình trạng lạm dụng quỹ.
Các lần sửa đổi bổ sung
Để phù hợp với thực tế phát triển của ngành y tế xã hội thì Luật Bảo hiểm Y tế 2008 đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần
-
Năm 2013 sửa đổi về mức hưởng và thông tuyến khám chữa bệnh
-
Năm 2014 bổ sung quy định về bắt buộc tham gia đối với hộ gia đình
-
Năm 2015, 2018 với 2020 tiếp tục điều chỉnh mức đóng, quyền lợi, phương thức thực hiện
-
Năm 2023 cập nhật quy định để phù hợp với chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế
Những điều chỉnh này nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo vệ quyền lợi người tham gia từ đó tối ưu hóa việc sử dụng quỹ bảo hiểm y tế.
Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12 là nền móng vững chắc cho xây dựng một hệ thống bảo hiểm y tế toàn diện hiệu quả tại Việt Nam. Qua nhiều năm áp dụng sửa đổi nên luật không chỉ mở rộng độ bao phủ còn nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân.