Tìm hiểu Nghị định 31 năm 2019 và vai trò trong thực thi Luật Tố cáo

Tố cáo là một quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp với pháp luật Việt Nam ghi nhận bảo vệ. Là công cụ quan trọng để phòng ngừa phát hiện xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên để quyền tố cáo được thực hiện đúng pháp luật với hiệu quả thì cần có những quy định chi tiết làm rõ nội dung của Luật Tố cáo. Chính vì vậy ngày 10 tháng 4 năm 2019 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31 quy định chi tiết một số điều cùng biện pháp thi hành Luật Tố cáo năm 2018.

Nghị định 31 có hiệu lực từ ngày 28 tháng 5 năm 2019 đang là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất trong việc hướng dẫn thực hiện Luật Tố cáo hiện hành.

Tổng quan về Nghị định 31 năm 2019

Nghị định số 31 được xây dựng trên cơ sở nội dung của Luật Tố cáo 2018. Luật này thay thế Luật Tố cáo năm 2011 được Quốc hội ban hành nhằm bảo đảm tốt hơn quyền cùng lợi ích hợp pháp của người tố cáo, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong công tác tiếp nhận, xử lý bảo vệ người tố cáo.

Nội dung của nghị định bao gồm nhiều vấn đề quan trọng như quy trình giải quyết tố cáo, quyền nghĩa vụ của người tố cáo, xử lý đơn rút tố cáo, công khai kết quả xử lý, bảo vệ người tố cáo với thân nhân đồng thời làm rõ trách nhiệm của cán bộ công chức trong việc tiếp nhận giải quyết tố cáo.

76

Những nội dung quan trọng được quy định trong nghị định

Thứ nhất là trình tự tiếp nhận giải quyết tố cáo. Nghị định 31 hướng dẫn rõ các bước từ tiếp nhận đơn tố cáo, xác minh nội dung tố cáo, ra kết luận đến công khai kết luận tố cáo. Đây là quy trình chuẩn giúp đảm bảo việc xử lý tố cáo được thực hiện đúng quy định pháp luật hạn chế tình trạng bỏ sót, kéo dài, né tránh hay xử lý thiếu khách quan.

Thứ hai là quy định về rút tố cáo. Người tố cáo có quyền rút lại tố cáo nếu thấy không cần tiếp tục. Tuy nhiên nghị định yêu cầu việc rút tố cáo phải được thực hiện bằng văn bản có lý do rõ ràng. Trong một số trường hợp, cơ quan tiếp nhận có thể vẫn phải tiếp tục xác minh nếu thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng dù người tố cáo đã rút đơn.

Thứ ba là việc công khai kết luận nội dung tố cáo. Sau khi xác minh và kết luận tố cáo, cơ quan giải quyết phải thông báo cho người tố cáo, đồng thời công khai kết quả xử lý theo hình thức phù hợp. Điều này giúp người dân được biết kết quả tố cáo tăng tính minh bạch trong quản lý nhà nước.

Thứ tư là quy định chi tiết về bảo vệ người tố cáo. Đây là một trong những điểm mới với tiến bộ của nghị định. Theo đó người tố cáo cùng người thân của họ được bảo vệ về thông tin cá nhân, nơi cư trú, tài sản, sức khỏe, danh dự. Trường hợp bị đe dọa trù dập hay trả thù thì có quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết.

Thứ năm là trách nhiệm của người giải quyết tố cáo. Nghị định nêu rõ nếu cán bộ công chức trong quá trình xử lý tố cáo mà vi phạm quy trình, gây chậm trễ, làm rò rỉ thông tin người tố cáo hay bao che sai phạm thì sẽ bị xử lý kỷ luật nghiêm khắc tùy theo mức độ vi phạm.

Ý nghĩa thực tiễn của nghị định

Nghị định 31 đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực tiễn quản lý nhà nước. Trước hết, nó cụ thể hóa các nguyên tắc quy định của Luật Tố cáo giúp cơ quan nhà nước với người dân thực hiện tố cáo một cách đúng pháp luật. Thay vì chỉ có những quy định chung chung, nay các cơ quan từ cấp xã đến cấp bộ đều có hướng dẫn cụ thể để áp dụng.

Thứ hai, nghị định tăng cường khả năng bảo vệ người tố cáo, đặc biệt trong bối cảnh nhiều người vẫn còn e ngại, sợ bị trả thù hay mất an toàn khi tố cáo. Bằng cách xây dựng hệ thống bảo vệ người tố cáo, nhà nước khẳng định quyết tâm chống tham nhũng, tiêu cực tạo lòng tin trong nhân dân.

Thứ ba, nhờ có quy định rõ về công khai kết luận tố cáo, người dân, cộng đồng có cơ hội theo dõi quá trình xử lý các vụ việc. Điều này giúp hạn chế tình trạng bao che, ém nhẹm hay xử lý thiếu khách quan. Tính minh bạch sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của cán bộ công chức.

Hạn chế khuyến nghị

Dù có nhiều điểm tiến bộ, nghị định 31 cũng cần tiếp tục được rà soát để phù hợp hơn với thực tiễn. Ví dụ, việc xác minh xử lý nội dung tố cáo hiện nay vẫn gặp khó khăn do thiếu nhân lực, hạn chế về thẩm quyền hay thiếu phối hợp giữa các cơ quan.

Việc bảo vệ người tố cáo tuy được quy định chi tiết nhưng chưa có cơ chế tài chính cụ thể để hỗ trợ triển khai tại địa phương. Một số địa phương còn e ngại trong việc công khai kết quả hoặc xử lý các trường hợp tố cáo cán bộ cấp cao.

Vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tăng cường công tác đào tạo cán bộ làm công tác tiếp nhận xử lý tố cáo đồng thời có chính sách khuyến khích người dân tố giác vi phạm để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.

Nghị định 31 năm 2019 là văn bản quan trọng. Đóng vai trò cầu nối giữa Luật Tố cáo với thực tiễn thi hành tại các cấp chính quyền. Với nội dung cụ thể, rõ ràng lại thiết thực nên nghị định đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả công tác phòng chống vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi tham nhũng tiêu cực với sai phạm trong quản lý hành chính. Tuy nhiên để nghị định thực sự phát huy hiệu quả cần có sự cam kết từ cả hệ thống chính trị với sự tham gia chủ động của người dân trong việc sử dụng quyền tố cáo một cách đúng đắn có trách nhiệm.