Luật ngân hàng là một nhánh quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia. Giữ vai trò điều chỉnh hoạt động của tổ chức tín dụng, ngân hàng trung ương cùng các chủ thể tham gia giao dịch tài chính tiền tệ. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường luôn đi đôi với yêu cầu hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tài chính bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền đảm bảo tuân thủ pháp luật trong hoạt động tín dụng. Bài viết này sẽ khái quát những kiến thức cơ bản nhất về luật ngân hàng cùng các quan hệ pháp lý quan trọng phát sinh trong thực tiễn.
Khái niệm luật ngân hàng
Luật ngân hàng là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng bao gồm Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, đồng thời điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh trong quá trình hoạt động như huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán, bảo lãnh ngân hàng giám sát ngân hàng. Mục đích của luật ngân hàng là bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính thiết lập cơ chế quản lý nhà nước hiệu quả nhờ đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân duy trì trật tự công trong lĩnh vực tiền tệ.
Khái niệm tín dụng ngân hàng theo quy định pháp luật
Tín dụng ngân hàng được hiểu là việc tổ chức tín dụng cấp cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng theo mục đích nhất định trong một thời hạn nhất định trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Tín dụng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như cho vay trực tiếp, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu giấy tờ có giá rồi cả phát hành thẻ tín dụng. Việc cấp tín dụng phải được lập thành hợp đồng tín dụng, trong đó quy định rõ nghĩa vụ của khách hàng với quyền kiểm soát của tổ chức tín dụng đối với khoản vay.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò trung gian phân phối vốn trong xã hội giúp luân chuyển nguồn lực từ nơi thừa sang nơi thiếu thúc đẩy sản xuất kinh doanh tăng trưởng kinh tế.
Nguồn của luật ngân hàng
Luật ngân hàng ở Việt Nam có nhiều nguồn pháp lý khác nhau tạo thành một hệ thống thống nhất. Các nguồn chủ yếu gồm
- Hiến pháp quy định nền tảng cho việc quản lý và điều tiết hệ thống ngân hàng
- Luật chuyên ngành như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng là hai văn bản cốt lõi
- Các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành
- Các quyết định nội bộ, quy chế nghiệp vụ, hướng dẫn thi hành của tổ chức tín dụng
Ngoài ra một số điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong quan hệ hợp tác, đầu tư, thanh toán quốc tế.
Lý thuyết luật ngân hàng và phương pháp điều chỉnh
Lý thuyết luật ngân hàng xoay quanh các yếu tố như đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, chức năng của ngân hàng, phạm vi áp dụng với mối quan hệ giữa ngân hàng với các chủ thể liên quan. Có hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu là
- Phương pháp mệnh lệnh áp dụng trong quan hệ giữa nhà nước và tổ chức tín dụng thể hiện ở các quyết định hành chính như cấp phép hoạt động, quy định dự trữ bắt buộc, thanh tra ngân hàng
- Phương pháp bình đẳng áp dụng trong quan hệ giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, nơi hai bên thỏa thuận trên cơ sở hợp đồng như hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng mở tài khoản
Sự kết hợp linh hoạt giữa hai phương pháp trên tạo nên đặc điểm đặc thù của luật ngân hàng là vừa điều chỉnh hành vi theo cơ chế nhà nước quản lý vừa đảm bảo quyền tự do dân sự trong giao dịch tài chính.
Đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng
Luật ngân hàng điều chỉnh hai nhóm đối tượng chính
- Thứ nhất là quan hệ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ngân hàng. Đây là các quan hệ giữa cơ quan nhà nước với tổ chức tín dụng bao gồm cấp phép thành lập ngân hàng, quản lý hoạt động nghiệp vụ, thanh tra giám sát với cả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ
- Thứ hai là quan hệ dân sự trong hoạt động ngân hàng. Đây là các quan hệ phát sinh giữa tổ chức tín dụng và khách hàng khi ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng gửi tiền, thanh toán, bảo lãnh, chiết khấu, phát hành thẻ, chuyển khoản
Tính chất đặc biệt của luật ngân hàng là vừa điều chỉnh quan hệ công quyền trong hoạt động quản lý nhà nước vừa điều chỉnh quan hệ dân sự mang tính thương mại giữa các bên.
Quan hệ pháp luật ngân hàng là gì
Quan hệ pháp luật ngân hàng là những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động ngân hàng được pháp luật điều chỉnh. Chủ thể trong quan hệ này bao gồm Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng, khách hàng cá nhân, doanh nghiệp, cơ quan giám sát cùng các bên thứ ba liên quan.
Mỗi quan hệ pháp luật đều có cấu thành gồm chủ thể, khách thể, nội dung. Ví dụ trong quan hệ tín dụng, ngân hàng là bên cho vay, khách hàng là bên vay, khách thể là khoản tiền cho vay với nội dung là quyền và nghĩa vụ hai bên theo hợp đồng tín dụng.
Các quan hệ này thường chịu sự điều chỉnh đồng thời bởi nhiều quy phạm pháp luật như luật ngân hàng, luật dân sự, luật thương mại, luật các tổ chức tín dụng.
Ví dụ về quan hệ pháp luật ngân hàng
Một khách hàng cá nhân ký hợp đồng vay vốn với ngân hàng để mua nhà. Quan hệ này là quan hệ tín dụng ngân hàng. Trong đó ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng trả nợ đúng hạn với khách hàng có nghĩa vụ thanh toán cả gốc lẫn lãi. Trường hợp khách hàng chậm thanh toán, ngân hàng có quyền khởi kiện xử lý tài sản thế chấp.
Một công ty ký hợp đồng bảo lãnh với ngân hàng để bảo đảm thanh toán hợp đồng thương mại với đối tác. Nếu công ty không thanh toán, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết có quyền yêu cầu công ty hoàn trả số tiền đã trả thay.
Một tổ chức tín dụng bị Ngân hàng Nhà nước thanh tra vì nghi ngờ vi phạm quy định về tỷ lệ an toàn vốn. Đây là quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với đơn vị chịu sự quản lý mang tính mệnh lệnh hành chính.
Luật ngân hàng là lĩnh vực pháp luật có phạm vi rộng ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế quản lý tài chính cùng sự vận hành của thị trường tiền tệ. Việc hiểu rõ bản chất luật ngân hàng, các nguồn pháp luật điều chỉnh, lý thuyết cơ bản với các quan hệ pháp lý đặc thù là nền tảng quan trọng giúp người học với người làm trong ngành có thể vận dụng hiệu quả vào công việc thực tiễn. Trong thời đại chuyển đổi số với hội nhập kinh tế quốc tế khiến vai trò của luật ngân hàng ngày càng được mở rộng đòi hỏi sự cập nhật liên tục.