Pháp luật quốc tế điều chỉnh các mối quan hệ xuyên biên giới giữa quốc gia quốc gia với tổ chức quốc tế. Để hiểu rõ bản chất của nó cần phân tích kỹ đối tượng điều chỉnh, ai là chủ thể, những gì không được coi là chủ thể và vai trò của luật quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người.
Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế
Đối tượng điều chỉnh là những nội dung mà luật quốc tế hướng tới nhằm điều hòa. Đầu tiên là quan hệ giữa các quốc gia về chủ quyền lãnh thổ, độc lập chính trị, phân chia không gian trên đất liền, trên biển, trong không gian, trên không gian vũ trụ. Những quy định liên quan như xác lập biên giới đất liền, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và không gian vũ trụ đều nằm dưới sự điều chỉnh của luật quốc tế.
Tiếp theo là quan hệ giữa quốc gia và tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế. Ví dụ như tổ chức phải tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc, phải vận hành dựa trên điều ước thành lập và các nguyên tắc cổ điển về tính pháp lý. Luật quốc tế còn điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia với tư cách cá nhân trong các vấn đề như quyền con người, di trú, nhân đạo, đầu tư quốc tế, thương mại và môi trường.
Cuối cùng là các chủ thể khác như cá nhân và pháp nhân quốc tế trong một số lĩnh vực. Ví dụ cá nhân có thể trực tiếp tố cáo vi phạm nhân quyền quốc tế hoặc bị truy cứu trước tòa án quốc tế về tội ác chiến tranh, tội ác chống lại loài người, tội diệt chủng hoặc tội chiến tranh. Một số tổ chức phi chính phủ cũng được công nhận vai trò nhất định như có tư cách gửi báo cáo với cơ quan nhân quyền quốc tế.
Chủ thể của luật quốc tế
Chủ thể trong luật quốc tế là những thực thể có năng lực pháp lý để chấp thuận quyền và nghĩa vụ quốc tế. Đầu tiên là quốc gia với tư cách là thực thể chủ quyền. Quốc gia có quyền ký kết, phê chuẩn điều ước, thụ hưởng quyền lợi quốc tế, đồng thời chịu trách nhiệm khi vi phạm.
Tiếp đến là tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập theo điều ước. Ví dụ như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới. Các tổ chức này có tư cách pháp nhân quốc tế, có quyền ký kết điều ước, thụ hưởng quyền miễn trừ và thực hiện chức năng điều phối hợp tác quốc tế.
Đối với luật nhân quyền và một số lĩnh vực công pháp quốc tế, cá nhân cũng là chủ thể. Khi họ bị vi phạm quyền cơ bản, họ có quyền khiếu nại với các ủy ban quốc tế như Ủy ban Nhân quyền, Hội đồng Nhân quyền. Trong một số vụ việc, cá nhân còn bị truy cứu trách nhiệm trước tòa án quốc tế nếu phạm tội diệt chủng, chiến tranh hoặc chống lại loài người.
Cuối cùng là pháp nhân quốc tế khi điều ước hoặc luật quốc tế cho phép. Một số điều ước cho phép tổ chức phi chính phủ hoặc tổ chức quốc tế tư nhân có tư cách trong các cơ chế quốc tế, ví dụ công ước chống tham nhũng hay bảo vệ môi trường quốc tế.
Những gì không phải là chủ thể của luật quốc tế
Không phải ai hoặc mọi thực thể cũng có thể là chủ thể pháp luật quốc tế. Các luật sư, thẩm phán, hiệp hội, doanh nghiệp hoặc tổ chức nội địa thường không có tư cách pháp lý quốc tế, trừ khi được luật quốc tế thừa nhận qua điều ước hoặc tập quán.
Ví dụ công ty tư nhân không được trực tiếp tham gia đàm phán điều ước quốc tế hoặc khiếu nại ra tòa án quốc tế nếu điều ước không dành cho họ. Họ phải hành động thông qua quốc gia nơi đăng ký hoặc bên đại diện pháp nhân quốc gia.
Các đơn vị hành chính địa phương, tổ chức xã hội dân sự, tổ chức tôn giáo trong nước cũng không phải là chủ thể quốc tế, không có quyền được miễn trừ quốc tế hoặc đưa vấn đề lên tòa án quốc tế nếu luật quốc tế không công nhận.
Luật quốc tế về quyền con người là gì
Luật quốc tế về quyền con người là một phần quan trọng của công pháp quốc tế, điều chỉnh về quyền cơ bản và tự do của cá nhân. Bộ quy phạm này bao gồm hiến chương quốc tế, các công ước, tập quán và án lệ quốc tế.
Các văn kiện nổi bật là Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, Công ước Quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Công ước về quyền kinh tế xã hội và văn hóa, Công ước chống tra tấn, Công ước về quyền người khuyết tật, Công ước về quyền trẻ em. Những công ước này quy định các nội dung như quyền sống, quyền tự do, quyền bầu cử, quyền làm việc, quyền giáo dục và bảo vệ pháp lý.
Luật quốc tế về quyền con người còn phát triển cơ chế giám sát như ủy ban điều ước, cơ chế báo cáo định kỳ, đơn khiếu nại cá nhân và các biện pháp khắc phục. Các ủy ban như Ủy ban Nhân quyền, Ban kinh tế xã hội xã hội văn hóa hoặc Ủy ban chống tra tấn đóng vai trò quan trọng trong việc theo dõi việc thực thi.
Vai trò của luật quốc tế về quyền con người
Đây là nền tảng pháp lý quốc tế bảo vệ cá nhân khỏi hành vi vi phạm từ phía quốc gia hoặc tổ chức có quyền lực. Luật giúp tạo ra cơ chế giám sát, báo cáo, điều tra và xử lý vi phạm nhân quyền. Nhờ đó nhiều cá nhân có thể đưa vấn đề lên cơ quan quốc tế danh nghĩa như Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền, Tòa án Nhân quyền châu Âu hoặc Cơ chế Nhân quyền Liên Mỹ.
Luật nhân quyền quốc tế cũng giúp chuẩn hóa chính sách quốc gia, hỗ trợ các quốc gia sửa đổi luật nội địa để phù hợp tiêu chuẩn quốc tế. Việc học và áp dụng luật này còn tạo ra áp lực ngoại giao nhằm cải thiện tình hình nhân quyền trong các quốc gia thành viên.
Tương quan giữa đối tượng và chủ thể
Đối tượng là nội dung quan tâm như lãnh thổ, quyền tài phán, quyền nhân quyền, trách nhiệm của quốc gia. Chủ thể là các thực thể như quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc cá nhân có khả năng tham gia vào các mối quan hệ đó.
Luật quốc tế không điều chỉnh doanh nghiệp tư nhân nếu không được luật công nhận. Nhân quyền quốc tế điều chỉnh về quyền và tự do cá nhân nhưng luật quốc tế không trực tiếp áp dụng cho tổ chức phi chính phủ trừ khi luật quốc tế trao khả năng đó qua điều ước.
Việc hiểu rõ đối tượng và chủ thể của luật quốc tế giúp xác định rõ phạm vi áp dụng, các bên liên quan cùng khả năng tác động sang các vấn đề xuyên quốc gia. Những gì không phải chủ thể quốc tế cũng cần nhận biết rõ để tránh nhầm lẫn trong trách nhiệm pháp lý. Luật quốc tế về quyền con người là lĩnh vực nổi bật góp phần đảm bảo quyền tự do cá nhân trên phạm vi toàn cầu hỗ trợ quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế.