Công ước Luật Biển 1982 Vai Trò Trong Trật Tự Pháp Lý Quốc Tế

Biển và đại dương không chỉ là không gian sinh thái còn là tuyến giao thông, nguồn tài nguyên với vùng lợi ích chiến lược của nhiều quốc gia. Tuy nhiên việc khai thác, sử dụng quản lý biển cũng đồng thời đặt ra hàng loạt vấn đề pháp lý quốc tế. Để điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trên biển một cách công bằng, toàn diện ổn định, Liên hợp quốc đã thông qua công ước luật biển năm 1982. Công ước này được xem là hiến chương đại dương là nền tảng pháp lý cơ bản điều chỉnh các hoạt động trên biển trong thời đại hiện đại.

Quá trình hình thành công ước luật biển năm 1982

Trước khi công ước năm 1982 ra đời, luật biển quốc tế còn tồn tại nhiều khoảng trống mâu thuẫn. Hai công ước trước đó năm 1958 và 1960 chưa giải quyết được trọn vẹn vấn đề phân định quyền lợi giữa các quốc gia ven biển và quốc gia không có biển. Trong bối cảnh tranh chấp ngày càng tăng với nhu cầu khai thác biển sâu, Liên hợp quốc đã triệu tập hội nghị lần thứ ba về luật biển, diễn ra từ năm 1973 đến năm 1982. Sau gần một thập kỷ đàm phán, công ước được thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1982 tại Montego Bay, Jamaica.

Là kết quả của nỗ lực thương lượng đa phương lớn nhất thời kỳ hậu chiến, với sự tham gia của hơn 160 quốc gia. Tính đến nay công ước đã được hơn 160 quốc gia và tổ chức quốc tế phê chuẩn, trong đó có Việt Nam. Công ước chính thức có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994.

pdf   lhq

Nội dung cơ bản với cấu trúc của công ước

Công ước luật biển 1982 bao gồm 17 phần, 320 điều 9 phụ lục. Nội dung chính của công ước điều chỉnh các vấn đề như phân định ranh giới biển, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, hoạt động hàng hải, bảo vệ môi trường biển với khai thác tài nguyên đáy biển cùng nghiên cứu khoa học, cơ chế giải quyết tranh chấp.

Một điểm nổi bật của công ước là xác lập quy chế pháp lý cho các vùng biển cụ thể. Bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa với vùng biển cả. Mỗi vùng biển có chế độ pháp lý khác nhau, tùy thuộc vào vị trí địa lý với mức độ quyền tài phán mà quốc gia ven biển được hưởng.

Công ước còn đưa ra các nguyên tắc quan trọng như quyền tự do hàng hải, quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, quyền đi qua không bị cản trở tại eo biển quốc tế, quyền sử dụng hòa bình vùng biển cả.

Các vùng biển theo công ước với quyền của quốc gia ven biển

Theo quy định, nội thủy là vùng nước nằm bên trong đường cơ sở, được quốc gia ven biển quản lý như lãnh thổ trên đất liền. Lãnh hải có chiều rộng tối đa 12 hải lý tính từ đường cơ sở, trong đó quốc gia ven biển có quyền chủ quyền gần như tuyệt đối.

Vùng tiếp giáp lãnh hải rộng 12 hải lý kể từ giới hạn ngoài lãnh hải, nơi quốc gia có quyền thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn vi phạm luật lệ về thuế, hải quan, y tế, nhập cư.

Vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng tối đa 200 hải lý, là một trong những điểm mới của công ước năm 1982. Trong vùng này quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền thiết lập sử dụng các công trình nhân tạo, nghiên cứu khoa học bảo vệ môi trường biển.

Thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền dưới đáy biển, có thể kéo dài tới 200 hải lý hay xa hơn nếu đáp ứng các điều kiện khoa học kỹ thuật nhất định. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc thăm dò khai thác tài nguyên khoáng sản dưới đáy biển và lớp đất dưới đáy biển tại đây.

Vùng biển cả là phần đại dương nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia. Là khu vực chung của toàn nhân loại, mọi quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, đánh bắt cá, xây dựng công trình, nghiên cứu khoa học đặt cáp ngầm.

Cơ chế giải quyết tranh chấp với tổ chức quốc tế liên quan

Công ước năm 1982 thiết lập hệ thống giải quyết tranh chấp gồm nhiều cơ chế linh hoạt. Các quốc gia thành viên có thể lựa chọn giải quyết bằng Tòa án quốc tế về luật biển, Tòa án công lý quốc tế, Trọng tài quốc tế hay thông qua cơ chế hòa giải.

Đặc biệt, công ước cũng thành lập ba tổ chức quốc tế gồm Cơ quan quản lý đáy biển quốc tế chịu trách nhiệm điều phối hoạt động khai thác tài nguyên ở vùng đáy biển quốc tế, Ủy ban ranh giới thềm lục địa hỗ trợ xác định giới hạn ngoài thềm lục địa và Tòa án luật biển quốc tế đặt trụ sở tại Hamburg, Đức.

Việc có nhiều cơ chế linh hoạt là một trong những yếu tố giúp công ước được các quốc gia đồng thuận cao, tạo nền tảng pháp lý ổn định cho giải quyết tranh chấp trên biển.

Ý nghĩa của công ước đối với Việt Nam và khu vực

Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài, nằm trong khu vực có nhiều tranh chấp phức tạp như Biển Đông. Việc tham gia công ước không chỉ là sự cam kết tuân thủ luật pháp quốc tế mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc để Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trên biển.

Dựa trên quy định của công ước, Việt Nam đã xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, thúc đẩy hoạt động khai thác dầu khí, đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường an ninh hàng hải. Đồng thời công ước cũng là căn cứ để Việt Nam phản bác các yêu sách phi lý của một số quốc gia trong khu vực.

Với tính toàn diện cùng hiệu lực pháp lý cao, công ước là công cụ hỗ trợ quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp trên cơ sở hòa bình và luật pháp quốc tế góp phần duy trì ổn định trật tự ở Biển Đông.

Công ước luật biển năm 1982 là văn kiện pháp lý quốc tế có tầm ảnh hưởng sâu rộng đặt nền móng cho trật tự pháp lý trên biển. Với cấu trúc chặt chẽ, nội dung toàn diện cùng cơ chế thực thi rõ ràng công ước đã góp phần làm giảm xung đột tăng cường hợp tác thúc đẩy sử dụng bền vững tài nguyên biển.

Việt Nam cần tiếp tục khai thác hiệu quả cơ sở pháp lý từ công ước trong bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế biển tham gia tích cực vào các diễn đàn luật biển quốc tế. Đồng thời tăng cường phổ biến kiến thức về công ước đến các tầng lớp xã hội để nâng cao nhận thức với ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo.