Trong quá trình phát triển kinh tế việc kiểm soát chất lượng sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ luôn đóng vai trò thiết yếu. Không chỉ là yêu cầu từ phía người tiêu dùng còn là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp xây dựng uy tín tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Chính vì vậy, năm 2006 Quốc hội đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật nhằm xây dựng một nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động quản lý chất lượng trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội.
Luật số 68 năm 2006 có hiệu lực từ ngày đầu năm 2007 được xem là một bước tiến lớn trong việc phân định rõ ràng giữa tiêu chuẩn mang tính tự nguyện với quy chuẩn có tính bắt buộc. Từ đó tạo ra hành lang pháp lý minh bạch đồng thời mở đường cho sự hội nhập đổi mới công nghệ trong sản xuất kinh doanh.
Khái niệm phạm vi điều chỉnh
Luật đưa ra hai khái niệm quan trọng là tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Theo đó tiêu chuẩn là những quy định được xây dựng để áp dụng tự nguyện giúp các tổ chức, cá nhân lựa chọn phương thức sản xuất hoặc kiểm tra chất lượng một cách khoa học, thống nhất. Tiêu chuẩn có thể do nhà nước ban hành hoặc do tổ chức, doanh nghiệp công bố tùy theo đặc điểm hoạt động.
Ngược lại, quy chuẩn kỹ thuật mang tính bắt buộc áp dụng. Đây là những quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nhằm đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe cộng đồng bảo vệ môi trường và lợi ích quốc gia. Quy chuẩn kỹ thuật được áp dụng cho sản phẩm, hàng hóa, quá trình sản xuất, phương tiện, thiết bị, dịch vụ trong từng lĩnh vực cụ thể.
Phạm vi điều chỉnh của luật rất rộng không giới hạn ở ngành công nghiệp hay nông nghiệp mà mở rộng đến y tế, giáo dục, xây dựng, giao thông, môi trường, năng lượng và nhiều lĩnh vực khác có liên quan đến tiêu chuẩn chất lượng và an toàn kỹ thuật.
Hệ thống tổ chức quản lý
Theo luật, việc xây dựng quản lý hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn được giao cho nhiều cơ quan nhà nước, trong đó Bộ Khoa học và Công nghệ giữ vai trò chủ trì. Các bộ, ngành có liên quan chịu trách nhiệm ban hành tổ chức thực hiện các quy chuẩn kỹ thuật thuộc phạm vi quản lý của mình.
Bên cạnh đó, luật cho phép các địa phương ban hành quy chuẩn kỹ thuật địa phương nhằm giải quyết các yêu cầu riêng biệt về an toàn, môi trường với điều kiện kinh tế xã hội tại từng khu vực. Tuy nhiên quy chuẩn địa phương không được trái với quy chuẩn quốc gia phải được công bố công khai.
Việc xây dựng quy chuẩn phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn có sự tham khảo tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển. Quá trình xây dựng cần có sự tham gia của các chuyên gia hay tổ chức khoa học và doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính khả thi phù hợp thực tế.
Quy trình xây dựng áp dụng
Luật quy định rõ quy trình xây dựng tiêu chuẩn quốc gia với quy chuẩn kỹ thuật. Đối với tiêu chuẩn, các tổ chức, cá nhân được phép đề xuất nội dung xây dựng hoặc sửa đổi. Hồ sơ sau khi được thẩm định sẽ được công bố rộng rãi để lấy ý kiến trước khi chính thức ban hành. Tiêu chuẩn sau khi công bố có thể được doanh nghiệp hoặc tổ chức áp dụng một cách tự nguyện tùy theo nhu cầu.
Đối với quy chuẩn do tính chất bắt buộc nên quy trình xây dựng phải nghiêm ngặt hơn. Các quy chuẩn kỹ thuật cần được thẩm định bởi cơ quan chuyên môn được công bố theo trình tự do pháp luật quy định. Việc áp dụng quy chuẩn được kiểm tra, giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo tuân thủ hiệu quả trong thực tiễn.
Luật cũng quy định rõ về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất nhập khẩu hàng hóa. Những sản phẩm thuộc danh mục quản lý theo quy chuẩn nếu không đáp ứng yêu cầu sẽ không được lưu thông trên thị trường.
Hoạt động đánh giá sự phù hợp
Một nội dung quan trọng khác trong luật là quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp. Đây là quá trình kiểm tra, thử nghiệm, chứng nhận nhằm xác định một sản phẩm, dịch vụ hay quy trình có đáp ứng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn đã công bố hay không.
Hoạt động này bao gồm thử nghiệm giám định chứng nhận hợp chuẩn chứng nhận hợp quy. Trong đó chứng nhận hợp chuẩn là việc đánh giá sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn tự nguyện. Còn chứng nhận hợp quy là yêu cầu bắt buộc đối với các sản phẩm thuộc đối tượng phải áp dụng quy chuẩn kỹ thuật.
Luật cho phép các tổ chức đánh giá sự phù hợp hoạt động độc lập miễn là đáp ứng đầy đủ điều kiện về năng lực, trang thiết bị và chuyên môn kỹ thuật. Cơ quan nhà nước sẽ công nhận giám sát các tổ chức này để đảm bảo chất lượng hoạt động và kết quả đánh giá trung thực, khách quan.
Vai trò trong hội nhập quốc tế
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật 2006 ra đời đúng vào thời điểm Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Đây là một bước đi quan trọng nhằm xóa bỏ rào cản kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế.
Việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí giảm thiểu rủi ro trong xuất khẩu nâng cao uy tín trên thị trường toàn cầu. Đồng thời, quy chuẩn kỹ thuật cũng là công cụ bảo vệ thị trường nội địa ngăn chặn hàng hóa kém chất lượng, không rõ nguồn gốc gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và môi trường.
Hệ thống đánh giá sự phù hợp được công nhận quốc tế giúp các sản phẩm đạt chứng nhận tại Việt Nam dễ dàng được chấp nhận tại nhiều quốc gia, qua đó mở rộng cơ hội hợp tác phát triển thương mại.
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 là một trong những văn bản pháp luật có vai trò nền tảng trong quản lý chất lượng bảo đảm an toàn nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam. Việc phân định rõ ràng giữa tiêu chuẩn tự nguyện với quy chuẩn bắt buộc giúp tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển đồng thời bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và lợi ích quốc gia.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu không ngừng thay đổi yêu cầu nâng cao chất lượng ngày càng cao nên luật này sẽ tiếp tục được sửa đổi bổ sung để phù hợp với xu hướng mới. Việc thực hiện nghiêm túc đồng bộ các quy định của luật sẽ góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại, bền vững hội nhập sâu rộng với thế giới.