BỘ LUẬT HÀNG HẢI VIỆT NAM 42-LCT/HĐNN8

 MỤC B

 MÔI GIỚI HÀNG HẢI

 Điều 150.

 1- Người môi giới hàng hải là người làm trung gian trong việc ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng cho thuê tầu, hợp đồng mua bán tầu, hợp đồng lai dắt, hợp đồng thuê thuyền viên và các hợp đồng khác liên quan đến hoạt động hàng hải, theo sự uỷ thác từng vụ việc của người uỷ thác.

 2- Người môi giới hàng hải chỉ được hưởng hoa hồng môi giới khi hợp đồng được ký kết do hoạt động trung gian của mình. Người môi giới và người uỷ thác thoả thuận về hoa hồng môi giới; nếu không có thoả thuận trước, thì hoa hồng môi giới được xác định trên cơ sở tập quán địa phương.

 3- Trên cơ sở uỷ thác, người môi giới hàng hải nhân danh người uỷ thác ký kết hợp đồng hoặc thu các khoản tiền liên quan, nếu không có sự hạn chế rõ ràng mà phía bên kia đã biết.

 Điều 151.

 Người môi giới hàng hải có quyền phục vụ các bên tham gia hợp đồng với điều kiện phải thông báo cho tất cả các bên biết về việc đó và có nghĩa vụ quan tâm thích đáng đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

 Điều 152.

 Thời hiệu khiếu nại về việc thực hiện hoạt động môi giới hàng hải giữa người môi giới và người uỷ thác là hai năm, tính từ ngày phát sinh vụ việc.

  

 CHƯƠNG IX

 HOA TIÊU HÀNG HẢI

 Điều 153.

 1- Hoa tiêu là người cố vấn và giúp đỡ cho thuyền trưởng điều khiển tầu phù hợp với điều kiện hàng hải ở khu vực dẫn tầu của hoa tiêu. Việc sử dụng hoa tiêu không miễn giảm trách nhiệm chỉ huy tầu của thuyền trưởng, kể cả trong trường hợp việc sử dụng hoa tiêu là bắt buộc theo quy định của pháp luật.

 2- Thuyền trưởng có quyền lựa chọn hoa tiêu hoặc đình chỉ hoạt động của hoa tiêu và yêu cầu thay thế hoa tiêu.

 Điều 154.

 1- Trong thời gian dẫn tầu, hoa tiêu thuộc quyền chỉ huy của thuyền trưởng tầu được dẫn.

 2- Hoa tiêu có nghĩa vụ thường xuyên chỉ dẫn cho thuyền trưởng biết về các điều kiện hàng hải ở khu vực dẫn tầu; khuyến nghị thuyền trưởng về các hành động không phù hợp với các quy định bảo đảm an toàn hàng hải và các quy định pháp luật khác.

 Khi thuyền trưởng cố ý không thực hiện các chỉ dẫn hoặc khuyến nghị hợp lý của mình, thì với sự làm chứng của người thứ ba, hoa tiêu có quyền từ chối dẫn tầu.

 3- Hoa tiêu có nghĩa vụ thông báo cho Giám đốc cảng vụ về tình hình dẫn tầu và những thay đổi có tính chất nguy hiểm về hàng hải mà mình phát hiện được trong khi dẫn tầu.

 4- Hoa tiêu phải thực hiện mẵn cán nghĩa vụ của mình.

 Điều 155.

 Thuyền trưởng có nghĩa vụ thông báo chính xác cho hoa tiêu tính năng và đặc điểm riêng của tầu; bảo đảm an toàn cho hoa tiêu khi lên và rời tầu; cung cấp cho hoa tiêu các tiện nghi làm việc, phục vụ sinh hoạt trong suốt thời gian hoa tiêu ở trên tầu.

 Điều 156.

 Nhiệm vụ của hoa tiêu chỉ được coi là kết thúc sau khi tầu đã thả neo, cập cầu hoặc đã đến vị trí thoả thuận một cách an toàn hoặc khi có hoa tiêu khác thay thế. Không có sự đồng ý của thuyền trưởng, hoa tiêu không được phép rời tầu.

 Trong trường hợp vì lý do bảo đảm an toàn, hoa tiêu không thể rời tầu sau khi kết thúc nhiệm vụ, thì thuyền trưởng phải ghé vào cảng gần nhất để hoa tiêu rời tầu. Chủ tầu phải chịu trách nhiệm đài thọ các chi phí liên quan và tổ chức đưa hoa tiêu trở về nơi đã tiếp nhận hoa tiêu.

 Điều 157.

 1- Trong trường hợp xảy ra tổn thất do lỗi của hoa tiêu, thì chủ tầu phải chịu trách nhiệm bồi thường các tổn thất đó như đối với tổn thất xảy ra do lỗi của thuyền viên.

 2- Hoa tiêu chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự trong trường hợp nói tại khoản 1, Điều này.

 Điều 158.

 1- Hội đồng bộ trưởng quy định biểu phí hoa tiêu tại Việt Nam.

 2- Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện quy định cụ thể về tổ chức hoa tiêu; tiêu chuẩn và chứng chỉ chuyên môn của hoa tiêu; vùng hoa tiêu bắt buộc hoặc không bắt buộc tại Việt Nam.

  

 CHƯƠNG X

 LAI DẮT TRÊN BIỂN

 Điều 159.

 1- Lai dắt trên biển là việc thực hiện tác nghiệp lai, kéo, đẩy hoặc hỗ trợ tầu biển và các phương tiện nổi khác trên biển và các vùng nước liên quan đến biển mà tầu biển được phép hoạt động, ngay cả khi tầu lai chỉ túc trực bên cạnh để hỗ trợ khi cần thiết.

 2- Người thuê lai dắt và chủ tầu lai thoả thuận về tiền công lai dắt trong hợp đồng lai dắt; nếu không có thoả thuận trong hợp đồng, thì tiền công lai dắt được xác định trên cơ sở tập quán địa phương.

 3- Hợp đồng lai dắt phải được làm thành văn bản, trừ trường hợp lai dắt tầu làm man-nơ trong cảng.

 Điều 160.

 1- Tầu lai và tầu biển hoặc các phương tiện được lai dắt khác hợp thành tập thể lai dắt. Tập thể lai dắt được hình thành kể từ khi tầu lai và các thành viên khác của tập thể lai dắt đã sẵn sàng thực hiện các tác nghiệp cần thiết theo lệnh của người chỉ huy tập thể lai dắt và được giải tán khi các tác nghiệp cuối cùng đã được thực hiện xong, các thành viên của tập thể lai dắt đã rời xa nhau ở một khoảng cách an toàn.

 2- Các bên tham gia hợp đồng lai dắt trên biển thoả thuận trong hợp đồng về người có quyền chỉ huy theo tập thể lai dắt; nếu không có thoả thuận, thì xác định theo tập quán địa phương.

 Điều 161.

 Chủ tầu lai có nghĩa vụ cung cấp tầu lai đúng địa điểm, thời điểm với điều kiện kĩ thuật thoả thuận trong hợp đồng.

 Điều 162.

 1- Chủ tầu của tầu có thuyền trưởng giữ quyền chỉ huy tập thể lai dắt phải chịu trách nhiệm về các tổn thất về tầu, người và tài sản trên tầu của các thành viên khác trong tập thể lai dắt, nếu không chứng minh được rằng các tổn thất đó xảy ra ngoài phạm vi trách nhiệm của mình.

 2- Các tầu dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng tầu khác không được miễn giảm trách nhiệm quan tâm đến sự an toàn chung của tập thể lai dắt và an toàn hàng hải; chủ tầu chịu trách nhiệm về các tổn thất về tầu, người và tài sản trên tầu của các thành viên khác, nếu tầu của mình có lỗi gây ra tổn thất.

 Điều 163.

 Thời hiệu khiếu nại về việc thực hiện hợp đồng lai dắt trên biển là hai năm, tính từ ngày chấm dứt hợp đồng lai dắt.

  

 CHƯƠNG XI

 CỨU HỘ HÀNG HẢI

 Điều 164.

 1- Cứu hộ hàng hải là hành động cứu tầu biển hoặc các tài sản thuộc về tầu thoát khỏi nguy hiểm hoặc hành động cứu trợ tầu biển đang bị nguy hiểm, được thực hiện trên cơ sở hợp đồng cứu hộ hàng hải.

 2- Hợp đồng cứu hộ hàng hải được ký kết theo các hình thức do các bên thoả thuận.

 Điều 165.

 1- Mọi hành động cứu hộ hàng hải mang lại kết quả có ích đều được hưởng tiền công cứu hộ hợp lý.

 2- Tiền công cứu hộ cũng phải được trả, kể cả trong các trường hợp: người cứu hộ có hành động trực tiếp hoặc gián tiếp giúp người được cứu hộ bảo vệ các quyền lợi liên quan đến tiền cước, tiền công vận chuyển hành khách; cứu hộ tầu biển thuộc cùng một chủ tầu; cứu hộ tầu sông hoặc thuỷ phi cơ trên biển hoặc các vùng nước nội địa

 3- Hành động cứu hộ trái với sự chỉ định rõ ràng và hợp lý của thuyền trưởng tầu được cứu, thì không được trả tiền công cứu hộ.

 Điều 166.

 1- Người được cứu tính mạng không có nghĩa vụ trả bất cứ một khoản tiền nào cho người đã cứu mình.

 2- Người cứu tính mạng được hưởng một khoản tiền thưởng hợp lý trong tiền công cứu hộ tài sản, nếu hành động đó liên quan đến cùng một tai nạn làm phát sinh hành động cứu hộ tài sản.

 Điều 167.

 Người đang thực hiện nhiệm vụ hoa tiêu hoặc lai dắt trên biển được thưởng công cứu hộ, nếu đã có những sự giúp đỡ đặc biệt vượt quá phạm vi trách nhiệm theo hợp đồng để cứu hộ tầu mà mình đang phục vụ.

 Điều 168.

 Các bên tham gia hợp đồng cứu hộ đều có quyền yêu cầu huỷ bỏ hoặc thay đổi những thoả thuận không hợp lý trong hợp đồng, nếu các thoả thuận này được ký kết trong tình trạng nguy cấp và bị tác động bởi tình trạng đó hoặc chứng minh được là đã bị lừa dối, lợi dụng khi ký kết và khi tiền công cứu hộ quá thấp hoặc quá cao so với thực tế.

 Điều 169.

 1- Tiền công cứu hộ bao gồm tiền thưởng công cứu hộ, chi phí cứu hộ và chi phí vận chuyển, bảo quản tầu hoặc tài sản được cứu hộ.

 2- Tiền công cứu hộ được thoả thuận trong hợp đồng, nhưng phải hợp lý và không được vượt quá giá trị tầu hoặc tài sản được cứu hộ.

 3- Trong trường hợp tiền công cứu hộ không được thoả thuận trong hợp đồng hoặc không hợp lý và khi có nhiều người tham gia cứu hộ, thì tiền công cứu hộ được xác định trên cơ sở:

  1. a) Kết quả cứu hộ;
  2. b) Công sức và mức độ cố gắng của người cứu hộ;
  3. c) Mức độ nguy hiểm đối với người trên tầu bị nạn, tầu hoặc tài sản bị nạn;
  4. d) Mức độ nguy hiểm đối với người cứu hộ cũng như đối với các tầu và thiết bị cứu hộ mà người cứu hộ sử dụng;
  5. e) Thời gian, chi phí và các tổn thất liên quan;
  6. g) Rủi ro về trách nhiệm hoặc các rủi ro khác mà người cứu hộ phải gánh chịu;
  7. h) Giá trị các thiết bị cứu hộ;
  8. i) Sự điều chỉnh đặc biệt của tầu cứu hộ để phục vụ hành động cứu hộ;
  9. k) Giá trị tài sản được cứu.

 4- Tiền công cứu hộ có thể bị giảm hoặc không được công nhận, nếu người cứu hộ đã tự gây ra tình trạng phải cứu hộ hoặc có hành động trộm cắp, lừa đảo, gian lận khi thực hiện hợp đồng cứu hộ.

  

  

 Điều 170.

 Giá trị tầu hoặc tài sản được cứu là giá trị thực tế tại nơi để tầu hoặc tài sản sau khi được cứu hộ hoặc tiền bán, định giá tài sản sau khi đã trừ chi phí ký gửi, bảo quản, tổ chức bán đấu giá và các chi phí tương tự khác.

 Điều 171.

 Tầu hoặc tài sản được cứu hộ có thể bị cầm giữ hoặc tạm giữ để bảo đảm việc thanh toán tiền công cứu hộ và các chi phí khác liên quan đến việc định giá, tổ chức bán đấu giá.

 Điều 172.

 1- Tiền công cứu hộ được chia đều giữa chủ tầu và thuyền bộ tầu cứu hộ, sau khi trừ chi phí, tổn thất của tầu và chi phí, tổn thất của chủ tầu hoặc của thuyền bộ liên quan đến hành động cứu hộ.

 Nguyên tắc này không áp dụng đối với tầu cứu hộ chuyên dùng.

 2- Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện quy định cụ thể cách thức phân chia tiền công cứu hộ của thuyền bộ.

 Điều 173.

 1- Các quy định tại Chương này cũng được áp dụng đối với các loại tầu thuộc các lực lượng vũ trang Việt Nam.

 2- Bộ trưởng Bộ quốc phòng và Bộ trưởng Bộ nội vụ quy định cụ thể cách thức phân chia tiền công cứu hộ của thuyền bộ các tầu thuộc các lực lượng vũ trang Việt Nam.

 Điều 174.

 Thời hiệu khiếu nại về việc thực hiện hợp đồng cứu hộ là hai năm, tính từ ngày kết thúc hành động cứu hộ.

 CHƯƠNG XII

 TRỤC VỚT TÀI SẢN CHÌM ĐẮM

  

 Điều 175.

 1- Tài sản chìm đắm nói tại Chương này là tầu, hàng hoá hoặc các vật thể khác chìm đắm ở nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam hoặc trôi nổi trên biển hoặc dạt vào bờ biển Việt Nam.

 2- Trong thời hạn chậm nhất là một trăm tám mươi ngày, kể từ ngày tài sản bị chìm đắm, chủ sở hữu tài sản đó phải thông báo cho Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện về ý định trục vớt và thời hạn dự kiến kết thúc hành động trục vớt.

 Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận được thông báo nói trên, Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện ra quyết định chấp nhận thời hạn dự kiến kết thúc hoạt động trục vớt hoặc quy định cụ thể thời hạn chủ sở hữu phải kết thúc hoạt động trục vớt. Thời hạn trục vớt không được quá một năm, kể từ ngày chủ sở hữu tài sản được giao quyết định này.

 3- Trong trường hợp chủ sở hữu tài sản không tiến hành hoạt động trục vớt trong thời hạn nói tại khoản 2, Điều này hoặc kéo dài hoạt động trục vớt quá một năm, kể từ ngày kết thúc thời hạn trục vớt, thì tài sản đó đương nhiên trở thành tài sản của Nhà nước Việt Nam.

 Điều 176.

 Việc trục vớt tài sản chìm đắm trong khu vực quân sự và việc trục vớt trang thiết bị quân sự phải được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hoặc thủ trưởng cơ quan quân sự mà Bộ trưởng Bộ Quốc phòng uỷ nhiệm cấp giấy phép.

 Điều 177.

 1- Trong trường hợp tài sản bị chìm đắm gây nguy hiểm hoặc cản trở hoạt động hàng hải, khai thác cảng và tài nguyên biển; đe doạ tính mạng và sức khoẻ con người; gây ô nhiễm môi trường biển, thì chủ tài sản có nghĩa vụ trục vớt ngay sau khi bị chìm đắm. Trong trường hợp chủ tài sản không thực hiện việc trục vớt, thì Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện tổ chức trục vớt và quy định rõ thời hạn chủ sở hữu tài sản phải thanh toán các chi phí liên quan.

 Chủ sở hữu tài sản còn phải bồi thường các tổn thất liên quan và bị phạt theo quy định của pháp luật, ngay cả khi bị mất quyền sở hữu tài sản quy định tại khoản 3, Điều 175 của Bộ luật này.

 2- Trong trường hợp nói tại khoản 1, Điều này, Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện có quyền chỉ định người trục vớt tài sản, nếu xét thấy người trục vớt do chủ sở hữu tài sản chỉ định không có khả năng bảo đảm trục vớt tài sản đúng thời hạn.

 3- Sau một trăm tám mươi ngày, kể từ ngày nhận thông báo về việc tài sản đã được trục vớt, nếu chủ sở hữu tài sản không yêu cầu nhận lại tài sản hoặc không thanh toán các chi phí liên quan trong thời hạn quy định, thì Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện hoặc cơ quan được Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện uỷ nhiệm có quyền đem bán đấu giá tài sản. Sau khi thu lại chi phí trục vớt, chi phí bảo quản, tổ chức bán đấu giá và các chi phí khác, số tiền còn thừa phải được ký gửi vào ngân hàng để trả lại cho chủ sở hữu tài sản.

 4- Chủ sở hữu tài sản chỉ chịu trách nhiệm thanh toán các chi phí liên quan đến các trường hợp nói tại Điều này trong giới hạn giá trị thực tế của tài sản đã được trục vớt.

 Điều 178.

 Các tổ chức và cá nhân Việt Nam được giành quyền ưu tiên trong việc ký kết hợp đồng trục vớt tài sản chìm đắm tại nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam.

 Điều 179.

 1- Trong trường hợp ngẵu nhiên trục vớt được tài sản của người khác trong nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam hoặc khi đưa tài sản ngẵu nhiên trục vớt được vào nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam, người trục vớt phải thông báo ngay cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương, Hải quan nơi gần nhất và Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải và Bưu điện biết về thời điểm, địa điểm và các sự kiện liên quan khác; phải bảo vệ tài sản đó đến khi giao lại; nếu có điều kiện cũng phải thông báo cho chủ sở hữu tài sản biết.

 2- Trong trường hợp nói tại khoản 1, Điều này, người trục vớt được hưởng tiền công trục vớt và nhận lại chi phí liên quan khác theo các nguyên tắc tương ứng về cứu hộ.

 3- Trong trường hợp tài sản trục vớt nói tại khoản 1, Điều này thuộc loại mau hỏng hoặc khi việc bảo quản là quá tốn kém, thì người trục vớt có quyền xử lý tài sản theo quy định tại khoản 3, Điều 177 của Bộ luật này.

 4- Trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày được thông báo mà chủ sở hữu tài sản không yêu cầu nhận lại tài sản hoặc không thanh toán các khoản nợ và khi không xác định được chủ sở hữu tài sản, thì người trục vớt có nghĩa vụ giao nộp tài sản đó cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương quản lý.

 Trong thời hạn một trăm tám mươi ngày, kể từ ngày thông báo mà chủ sở hữu tài sản không có hành động gì để bảo vệ quyền lợi của mình, thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương có quyền xử lý tài sản theo quy định tại khoản 3, Điều 177 của Bộ luật này.

 Điều 180.

 1- Người nào tìm thấy, cứu hoặc tham gia cứu được tài sản của người khác đang trôi nổi trên biển, thì có quyền hưởng tiền công theo nguyên tắc tương tự về cứu hộ, nếu đã thông báo cho chủ sở hữu tài sản biết về yêu cầu của mình, chậm nhất là khi trao trả tài sản.

 2- Người tìm thấy, bảo quản tài sản dạt vào bờ biển, thì có quyền được hưởng một khoản tiền thưởng và bồi hoàn chi phí bảo quản không quá 30% giá trị thị trường của tài sản đó, nếu đã thông báo cho chủ sở hữu tài sản biết, chậm nhất là khi trao trả tài sản.

 3- Các quy định tại các khoản 1, 3 và 4 , Điều 179 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với các trường hợp nói tại khoản 1 và khoản 2, Điều này.

 Điều 181.

 Hội đồng bộ trưởng quy định cụ thể việc xử lý tài sản chìm đắm ở biển.

  

 CHƯƠNG XIII

 TAI NẠN ĐÂM VA

 Điều 182.

 1- Tai nạn đâm va nói tại Bộ luật này là tai nạn xảy ra do đâm va giữa tầu biển với tầu biển, tầu biển với tầu sông, tầu biển với thuỷ phi cơ hoặc các phương tiện nổi khác trong các vùng nước mà tầu biển được phép hoạt động.

 2- Tầu có lỗi gây ra tai nạn đâm va phải bồi thường mọi tổn thất về tầu, người và tài sản liên quan đến tai nạn đâm va đó. Khi chưa xác định được lỗi một cách rõ ràng, thì không ai có thể bị coi là đã có lỗi gây ra tai nạn đam va.

 3- Tầu có lỗi gây ra tai nạn đâm va là tầu gây ra sự đâm va do có hành động hoặc sự sơ suất trong việc trang bị, điều khiển, quản trị tầu; trong việc chấp hành quy tắc phòng ngừa đâm va trên biển và quy định bảo đảm an toàn hàng hải; do không thực hiện những tập quán nghề nghiệp cần thiết.

 Điều 183.

 1- Trong trường hợp có hai hoặc nhiều tầu cùng có lỗi trong một tai nạn đâm va, thì trách nhiệm bồi thường được phân bổ tuỳ theo mức độ lỗi của mỗi bên. Trong trường hợp mức độ lỗi ngang nhau hoặc khi không xác định cụ thể mức độ lỗi của mỗi bên, thì trách nhiệm bồi thường được phân bổ đều cho tất cả các bên.

 2- Đối với việc bồi thường tính mạng, thương tích hoặc tổn hại khác về sức khoẻ con người, các tầu có lỗi phải chịu trách nhiệm theo nguyên tắc cộng đồng trách nhiệm. Tầu đã bồi thường quá trách nhiệm của mình có quyền đòi các tầu liên quan hoàn trả số tiền quá mức đó.

 Thời hiệu khiếu nại về việc đòi hoàn trả số tiền quá mức là một năm, tính từ ngày trả tiền bồi thường.

  

  

 Điều 184.

 Trong trường hợp tai nạn đâm va xảy ra do các nguyên nhân bất khả kháng, ngẵu nhiên hoặc khi không xác định được tầu có lỗi, thì thiệt hại của tầu nào do tầu đó chịu, kể cả trường hợp tầu đang được neo, buộc hoặc cặp mạn một tầu khác thì xảy ra đâm va.

 Điều 185.

 1- Khi xảy ra tai nạn đâm va, thuyền trưởng các tầu liên quan có nghĩa vụ tiến hành cứu nạn tầu, người và tài sản trên tầu khác, nếu hành động đó không gây ra sự nguy hiểm đặc biệt cho tầu, người và tài sản trên tầu của mình.

 2- Ngay sau khi đâm va, thuyền trưởng các tầu liên quan có nghĩa vụ trao đổi cho nhau biết tên tầu, hô hiệu, nơi đăng ký, cảng rời cuối cùng và cảng định đến của tầu mình.

 3- Chủ tầu không chịu trách nhiệm về việc thuyền trưởng dưới quyền không thực hiện nghĩa vụ nói tại khoản 1 và khoản 2, Điều này.

 Điều 186.

 1- Các quy định tại Chương này cũng được áp dụng khi tầu có lỗi gây ra tổn thất cho tầu, người và tài sản trên tầu khác mà không có sự đâm va trực tiếp.

 2- Các quy định tại Chương này cũng được áp dụng đối với các tầu thuộc các lực lượng vũ trang Việt Nam. Các tầu này chỉ được miễn trách nhiệm bồi thường nếu có lỗi gây ra tai nạn đâm va khi đang làm nhiệm vụ ở vùng diễn tập quân sự và vùng cấm hoạt động hàng hải đã được công bố, nhưng thuyền trưởng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều 185 của Bộ luật này.

  

 CHƯƠNG XIV

 TỔN THẤT CHUNG

  

 Điều 187.

 1- Tổn thất chung bao gồm những hy sinh hoặc chi phí bất thường được thực hiện một cách có ý thức và hợp lý vì sự an toàn chung nhằm cứu tầu, hàng hoá, tiền cước vận chuyển hoặc tiền công vận chuyển hành khách thoát khỏi hiểm hoạ chung.

 2- Tổn thất là hậu quả trực tiếp của hành động gây ra tổn thất chung mới được tính vào tổn thất chung. Tổn thất gián tiếp liên quan đến hành động gây ra tổn thất chung như tổn thất do lưu tầu hoặc do chênh lệch giá đều không được tính vào tổn thất chung.

 3- Chi phí đặc biệt vượt quá mức cần thiết chỉ được tính vào tổn thất chung trong giới hạn hợp lý đối với từng trường hợp cụ thể.

 Điều 188.

 1- Tổn thất chung được phân bổ theo một tỉ lệ tương ứng với giá trị của tầu, hàng hoá, tiền cước vận chuyển, tiền công vận chuyển hành khách ở nơi và thời điểm mà tầu ghé vào lánh nạn sau khi xảy ra tổn thất chung.

 2- Các quy định tại khoản 1, Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hiểm hoạ chung phát sinh do lỗi của người cùng có lợi ích trong tổn thất chung hoặc của người thứ ba.

 3- Tổn thất chung cũng được phân bổ ngay cả khi đã phải hy sinh tầu hoặc toàn bộ hàng hoá mà không đạt được hiệu quả mong muốn.

 4- Việc phân bổ tổn thất chung không loại trừ quyền của người liên quan đòi người có lỗi phải bồi thường cho mình.

 Điều 189.

 Tổn thất của số hàng hoá được bốc lậu lên tầu hoặc khai sai về chủng loại và giá trị không được tính vào tổn thất chung; nếu hàng hoá đó cũng được cứu thoát khỏi hiểm hoạ chung, thì cũng phải chịu một giá trị phân bổ tương ứng.

 Điều 190.

 Mọi tổn thất về tầu, hàng hoá, tiền cước vận chuyển không được tính vào tổn thất chung theo các nguyên tắc trên đây, được gọi là tổn thất riêng. Người bị thiệt hại không được bồi thường, nếu không chứng minh được tổn thất xảy ra do lỗi của người khác.

 Điều 191.

 1- Việc xác định tổn thất chung, giá trị tổn thất và phân bổ tổn thất chung do các chuyên viên phân bổ tổn thất chung thực hiện theo yêu cầu và chỉ định của chủ tầu.

 2- Chủ tầu có nghĩa vụ chỉ định chuyên viên phân bổ tổn thất chung của mình chậm nhất là sau ba mươi ngày, kể từ ngày tầu ghé vào nơi lánh nạn, sau khi xảy ra tổn thất chung. Sau thời hạn đó mà chủ tầu chưa chỉ định được, thì bất cứ ai trong số những người liên quan cũng có quyền chỉ định chuyên viên phân bổ tổn thất chung.

 3- Các nguyên tắc dùng để xác định cụ thể giá trị tổn thất và giá trị phân bổ tổn thất chung do các bên thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp không có thoả thuận trước trong hợp đồng, thì chuyên viên phân bổ tổn thất chung căn cứ vào tập quán quốc tế để giải quyết.

 Điều 192.

 Thời hiệu khiếu nại về tổn thất chung là hai năm, tính từ ngày xảy ra tổn thất chung. Thời hiệu này tạm dừng khi các chuyên viên phân bổ tổn thất chung bắt đầu tiến hành hoạt động xác định tổn thất chung và tiếp tục được tính từ ngày hoạt động đó chấm dứt.

 Điều 193.

 Hội đồng bộ trưởng ban hành Quy chế về chuyên viên phân bổ tổn thất chung.

  

 CHƯƠNG XV

 TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ TẦU

  

 Điều 194.

 1- Chủ tầu có trách nhiệm bồi thường dân sự các tổn thất phát sinh trong việc sử dụng tầu biển, nếu không chứng minh được rằng đã không có lỗi gây ra tổn thất đó, sau đây gọi là trách nhiệm dân sự của chủ tầu.

 2- Trách nhiệm bồi thường dân sự không loại trừ trách nhiệm hành chính và hình sự.

 Điều 195.

 1- Chủ tầu được hạn chế trách nhiệm bồi thường theo mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật này khi bồi thường các tổn thất liên quan đến:

  1. a) Bất cứ người nào có mặt ở trên tầu mà bị chết, bị thương hoặc bị tổn hại khác về sức khoẻ con người; mọi tài sản ở trên tầu bị mất mát, hư hỏng;
  2. b) Bất cứ người nào ở bên ngoài con tầu mà bị chết, bị thương hoặc bị tổn hại khác về sức khoẻ con người; mọi tài sản hoặc các quyền lợi khác ở bên ngoài con tầu bị mất mát, hư hỏng hoặc bị xâm phạm do hành động, sự sơ suất, sai lầm của bất cứ ai đang ở trên tầu hoặc ở ngoài con tầu mà chủ tầu phải chịu trách nhiệm về hành động, sự sơ suất, sai lầm của họ. Trong trường hợp tổn thất do những người ở bên ngoài con tầu gây ra mà chủ tầu phải chịu trách nhiệm về hành động, sự sơ suất, sai lầm của họ, thì chủ tầu chỉ được hạn chế trách nhiệm bồi thường đối với các tổn thất phát sinh trong việc điều khiển, quản trị tầu, bốc hàng, vận chuyển và dỡ hàng; nhận hành khách, vận chuyển và trả hàng khách;
  3. c) Mọi nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật về việc thanh thải xác tầu và các vật thể liên quan đến tầu khi trục vớt, di chuyển, phá huỷ tầu bị đắm, bị mắc cạn hoặc bị bỏ lại; nghĩa vụ hoặc trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho thiết bị cảng, cầu bến, luồng lạch, vũng đậu tầu, ụ tầu; nghĩa vụ hoặc trách nhiệm bồi thường tổn thất ô nhiễm môi trường do tầu gây ra mà không phải là tổn thất ô nhiệm môi trường do phóng xạ nguyên tử.

 2- Chủ tầu cũng được hạn chế trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp nói tại điểm b, khoản 1, Điều này, nếu trách nhiệm đó phát sinh từ việc sở hữu, chiếm hữu, quản lý, kiểm soát tầu mà không cần phải chứng minh; lỗi của chủ tầu hoặc của những người khác mà chủ tầu phải chịu trách nhiệm.

 3- Chủ tầu không được hạn chế trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp xảy tổn thất liên quan đến:

  1. a) Hành động cứu hộ hoặc chi phí để đóng góp vào tổn thất chung;
  2. b) Ô nhiễm môi trường do phóng xạ nguyên tử;
  3. c) Khiếu nại của thuyền trưởng, thuyền viên khác, người làm công cho chủ tầu ở trên tầu hoặc của những người làm công khác ở bên ngoài con tầu mà có nhiệm vụ liên quan đến tầu, kể cả khiếu nại của người thừa kế, người đại diện và người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng, nếu quy định pháp luật về hợp đồng lao động giữa chủ tầu và những người này không cho phép chủ tầu được hạn chế trách nhiệm bồi thường đối với những khiếu nại của họ hoặc chỉ cho phép chủ tầu giới hạn trách nhiệm bồi thường với mức cao hơn so với mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật này.

 4- Trong trường hợp pháp luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận có quy định khác với Bộ luật này, thì mức giới hạn trách nhiệm bồi thường của chủ tầu được xác định và giải quyết trên cơ sở các văn bản đó.

 Điều 196.

 1- Chủ tầu chỉ có trách nhiệm bồi thường theo trách nhiệm dân sự trong các mức giới hạn:

  1. a) Tổng giá trị của con tầu liên quan, tính theo đơn giá tương đương ba nghìn một trăm Frăng vàng cho mỗi tấn đăng ký dung tích toàn phần (GRT), nếu là để bồi thường tổn thất liên quan đến tính mạng, thương tích và các tổn hại khác về sức khoẻ con người;
  2. b) Tổng giá trị của con tầu liên quan, tính theo đơn giá tương đương một nghìn Frăng vàng cho mỗi tấn đăng ký dung tích toàn phần (GRT), nếu là để bồi thường mất mát, hư hỏng tài sản;
  3. c) Tổng giá trị của con tầu liên quan, tính theo giá tương đương ba nghìn một trăm Frăng vàng cho mỗi tấn đăng ký dung tích toàn phần (GRT), nếu là để bồi thường tổn thất liên quan đến tính mạng, thương tích và các tổn thất khác về sức khoẻ con người và mất mát, hư hỏng tài sản trong cùng một vụ việc. Trong đó, tổng số tiền tính theo đơn giá tương đương hai nghìn một trăm Frăng vàng cho mỗi tấn đăng ký dung tích toàn phần (GRT) dùng để bồi thường tổn thất liên quan tính mạng, thương tích và các tổn hại khác về sức khoẻ con người; số còn lại dùng để bồi thường mất mát, hư hỏng tài sản. Trong trường hợp tổng số tiền dành để bồi thường tổn thất liên quan đến tính mạng, thương tích và các tổn hại khác về sức khoẻ con người không đủ, thì phần còn thiếu được tính vào phần tiền dành để bồi thường mất mát, hư hỏng tài sản theo tỉ lệ thuận.

 2- Mọi thoả thuận nhằm giảm trách nhiệm bồi thường của chủ tầu dưới mức giới hạn nói tại khoản 1, Điều này đều không có giá trị.

 3- Số tấn đăng ký dung tích toàn phần (GRT) nói tại khoản 1, Điều này là:

  1. a) Tổng dung tích thực dụng cộng với dung tích buồng máy, nếu là tầu có động cơ;
  2. b) Tổng dung tích thực dụng, nếu là tầu không có động cơ.

 4- Khi xác định giới hạn trách nhiệm dân sự của chủ tầu, loại tầu dưới ba trăm tấn đăng ký dung tích toàn phần được quy tròn là ba trăm.

 Điều 197.

 1- Mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật này chỉ được dùng để bồi thường các tổn thất phát sinh trong cùng một vụ việc, không liên quan đến các vụ việc khác.

 2- Trong trường hợp chủ tầu có quyền đòi người khiếu nại mình bồi thường trong cùng một vụ việc, thì các quy định tại Chương này chỉ áp dụng để xác định khoản tiền chênh lệch so với trách nhiệm của mỗi bên.

 3- Mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật này được chuyển đổi thành tiền Việt Nam theo tỉ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm thanh toán.

 Điều 198.

 1- Trong trường hợp số tiền bồi thường vượt quá mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật này, thì chủ tầu có thể lập “Quỹ bồi thường” để thoả mãn các khiếu nại.

 2- “Quỹ bồi thường” này chỉ dành để giải quyết các khiếu nại đòi bồi thường mà chủ tầu được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm dân sự.

 3- “Quỹ bồi thường” được lập bằng cách ký quỹ hoặc bằng các hình thức bảo đảm khác ở toà án nhận khiếu nại hoặc tại một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác và phải được toà án hoặc cơ quan đó công nhận là hợp lệ và bảo hộ.

 4- Sau khi chủ tầu đã lập “Quỹ bồi thường”, không ai có quyền xâm phạm quyền lợi hoặc tài sản của chủ tầu. Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nói ở khoản 3, Điều này có quyền ra lệnh giải phóng tài sản bị cầm giữ, bắt giữ hoặc chấm dứt các bảo đảm tương tự.

 5- “Quỹ bồi thường” được phân chia cho những người khiếu nại theo tỉ lệ thích hợp giữa các khoản tiền khiếu nại.

 6- Việc lập “Quỹ bồi thường” không có nghĩa là chủ tầu đã thừa nhận mọi trách nhiệm về mình.

 Điều 199.

 Giới hạn trách nhiệm dân sự của chủ tầu cũng được áp dụng theo nguyên tắc tương tự đối với người khai thác tầu, người quản lý tầu, người cứu hộ chuyên nghiệp và những người mà bản thân chủ tầu hoặc những người nói trên phải chịu trách nhiệm về hành động, sự sơ suất, sai lầm của họ.

  

 CHƯƠNG XVI

 HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM HÀNG HẢI

 MỤC A

 QUY ĐỊNH CHUNG

 Điều 200.

 1- Hợp đồng bảo hiểm hàng hải là hợp đồng được ký kết giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm mà theo đó, người bảo hiểm thu bảo hiểm phí do người được bảo hiểm trả và người được bảo hiểm được người bảo hiểm bồi thường tổn thất của đối tượng bảo hiểm do các hiểm hoạ hàng hải gây ra theo mức độ và điều kiện đã thoả thuận với người bảo hiểm.

 2- Hợp đồng bảo hiểm hàng hải có thể áp dụng đối với cả các hiểm hoạ có thể gây ra tổn thất cho đối tượng bảo hiểm hàng hải trên quãng vận chuyển đường không, đường thuỷ nội địa hoặc đường bộ trong liên hiệp vận chuyển.

 3- Hợp đồng bảo hiểm hàng hải phải được làm bằng văn bản.

 Điều 201.

 1- Đối tượng bảo hiểm hàng hải có thể là bất kỳ quyền lợi vật chất nào liên quan đến các hoạt động hàng hải mà có thể quy ra tiền, bao gồm: tầu biển, hàng hoá, tiền cước vận chuyển, tiền công vận chuyển hành khách, tiền thuê tầu, tiền thuê – mua tầu, tiền lãi ước tính của hàng hoá, các khoản hoa hồng, chi phí tổn thất chung, trách nhiệm dân sự và các khoản tiền được bảo đảm bằng tầu, hàng hoá hoặc tiền cước vận chuyển.

 2- Đối tượng bảo hiểm hàng hải còn có thể là tầu đang đóng.

  

 Điều 202.

 1- Người bảo hiểm có thể cho người khác tái bảo hiểm đối tượng bảo hiểm mà mình đã nhận bảo hiểm.

 2- Hợp đồng tái bảo hiểm độc lập với hợp đồng bảo hiểm gốc.

 Điều 203.

 1- Theo yêu cầu của người được bảo hiểm, người bảo hiểm có nghĩa vụ cấp đơn bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Đơn bảo hiểm là bằng chứng về việc ký kết hợp đồng.

 2- Trước khi cấp đơn bảo hiểm, người bảo hiểm có nghĩa vụ cấp cho người được bảo hiểm giấy chứng nhận về việc ký kết hợp đồng, nếu người đó yêu cầu.

 3- Đơn bảo hiểm có thể được cấp theo hình thức đơn bảo hiểm đích danh, đơn bảo hiểm theo lệnh hoặc đơn bảo hiểm vô danh.

 4- Đơn bảo hiểm phải có những nội dung cơ bản sau đây:

  1. a) Tên người được bảo hiểm hoặc người có quyền lợi được bảo hiểm;
  2. b) Đối tượng bảo hiểm;
  3. c) Các hiểm hoạ được bảo hiểm;
  4. d) Số lượng chuyến đi hoặc thời hạn thực hiện hợp đồng bảo hiểm, tuỳ theo hợp đồng đó là hợp đồng bảo hiểm chuyến hoặc hợp đồng bảo hiểm thời hạn;
  5. e) Số tiền bảo hiểm;
  6. g) Nơi, ngày, tháng và giờ cấp đơn bảo hiểm;
  7. h) Chữ ký và xác nhận của người bảo hiểm.

 Điều 204.

 1- Người được bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho người bảo hiểm biết tất cả các thông tin mà mình biết hoặc cần phải biết liên quan đến việc ký kết hợp đồng bảo hiểm, có thể ảnh hưởng đến việc xác định khả năng xảy ra hiểm hoạ hoặc quyết định của người bảo hiểm về việc nhận bảo hiểm và các điều kiện bảo hiểm, trừ loại thông tin mà mọi người đều biết hoặc người bảo hiểm đã biết hoặc cần phải biết.

 2- Nghĩa vụ của người được bảo hiểm quy định tại khoản 1, Điều này cũng được áp dụng đối với các đại diện được uỷ quyền của người được bảo hiểm.

 3- Các nghĩa vụ quy định tại Điều này cũng được áp dụng đối với người thứ ba, nếu hợp đồng bảo hiểm được ký kết vì quyền lợi của người thứ ba, trừ trường hợp người thứ ba không biết về việc ký kết này.

  

 Điều 205.

 1- Hợp đồng bảo hiểm hàng hải có thể được ký kết vì quyền lợi của người thứ ba, sau đây gọi là người có quyền lợi được bảo hiểm.

 2- Người có quyền lợi được bảo hiểm có quyền yêu cầu người bảo hiểm cấp đơn bảo hiểm; nếu đơn bảo hiển đã được giao cho người có quyền lợi được bảo hiểm, thì người đó được hưởng đầy đủ các quyền theo hợp đồng.

 Nghĩa vụ của người được bảo hiểm liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, trừ nghĩa vụ nộp bảo hiểm phí, được chuyển sang cho người có quyền lợi được bảo hiểm từ khi người này nhận được đơn bảo hiểm.

 Điều 206.

 1- Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực, nếu vào thời điểm ký kết hợp đồng, hiểm hoạ được bảo hiểm đã xảy ra hoặc không có khả năng xảy ra trong thực tế. Người bảo hiểm vẫn có quyền thu tiền phạt huỷ hợp đồng, trừ trường hợp trước khi ký kết người bảo hiểm đã biết về sự kiện đó.

 2- Hai bên thoả thuận trong hợp đồng về mức tiền phạt huỷ hợp đồng.

 Điều 207.

 Trong trường hợp người được bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 204 của Bộ luật này, thì người bảo hiểm có quyền rút khỏi hợp đồng và vẫn được thu đầy đủ bảo hiểm phí. Nếu người được bảo hiểm không có lỗi trong việc khai báo không chính xác hoặc không khai báo theo quy định tại Điều 204 của Bộ luật này, thì người bảo hiểm không có quyền rút khỏi hợp đồng, nhưng có quyền thu thêm bảo hiểm phí ở mức độ hợp lý.

 Điều 208.

 Người được bảo hiểm có quyền rút khỏi hợp đồng bảo hiểm vào bất kỳ lúc nào, trước khi xuất hiện hiểm hoạ được bảo hiểm và có nghĩa vụ trả tiền phạt huỷ hợp đồng.

 Các bên tham gia hợp đồng thoả thuận trong hợp đồng về tiền phạt huỷ hợp đồng và điều kiện hoàn trả bảo hiểm phí.

 Điều 209.

 Thời hiệu khiếu nại liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là hai năm, tính từ ngày phát sinh vụ việc.

  

 MỤC B

 GIÁ TRỊ BẢO HIỂM VÀ SỐ TIỀN BẢO HIỂM

 Điều 210.

 Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm và được xác định như sau:

  1. a) Giá trị bảo hiểm của tầu là tổng giá trị của tầu vào thời điểm bắt đầu bảo hiểm. Giá trị này còn bao gồm giá trị của máy móc, trang thiết bị, phụ tùng, dự trữ của tầu cộng với toàn bộ phí bảo hiểm phí. Tuỳ theo hợp đồng, giá trị tầu còn có thể bao gồm cả tiền lương ứng trước cho thuyền bộ và chi phí chuẩn bị chuyến đi;
  2. b) Giá trị bảo hiểm của hàng hoá là giá trị hàng ghi trên hoá đơn ở nơi bốc hàng hoặc giá trị thị trường ở nơi và thời điểm bốc hàng cộng với phí bảo hiểm và có thể cả tiền lãi ước tính;
  3. c) Giá trị bảo hiểm của tiền cước vận chuyển là tổng số tiền cước vận chuyển cộng với bảo hiểm phí. Trong trường hợp người thuê vận chuyển mua bảo hiểm cho tiền cước vận chuyển, thì số tiền cước này được tính gộp vào giá trị bảo hiểm của hàng hoá để bảo hiểm.
  4. d) Giá trị bảo hiểm của các đối tượng bảo hiểm khác, trừ các trách nhiệm dân sự, là giá trị của đối tượng ở nơi và thời điểm bắt đầu bảo hiểm cộng với phí bảo hiểm.

 Điều 211.

 1- Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, người được bảo hiểm phải kê khai số tiền cần bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm, sau đây gọi là số tiền bảo hiểm.

 2- Nếu số tiền bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm thấp hơn giá trị bảo hiểm, thì người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất, theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm, kể cả chi phí khác thuộc phạm vi bảo hiểm.

 3- Nếu số tiền bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm, thì phần tiền vượt quá giá trị bảo hiểm không được thừa nhận.

 Điều 212.

 Trong trường hợp đối tượng bảo hiểm được nhiều người bảo hiểm đối với cùng một hiểm hoạ và tổng số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị bảo hiểm, thì tất cả những người bảo hiểm đó chỉ chịu trách nhiệm bồi thường trong phạm vi giá trị bảo hiểm và mỗi người chỉ chịu trách nhiệm theo tỉ lệ tương ứng với số tiền bảo hiểm mà mình đã nhận bảo hiểm. Bảo hiểm này gọi là bảo hiểm trùng.

  

 MỤC C

 CHUYỂN GIAO QUYỀN THEO HỢP ĐỒNG

 BẢO HIỂM HÀNG HẢI

 Điều 213.

 Các quyền theo hợp đồng bảo hiểm hàng hải chỉ được chuyển cho người đã được chuyển nhượng đối tượng bảo hiểm; nếu các quyền đó không được chuyển cho người được chuyển nhượng đối tượng bảo hiểm, thì hợp đồng mặc nhiên chấm dứt và người bảo hiểm vẫn có nghĩa vụ bồi thường các tổn thất liên quan, xảy ra trước khi đối tượng bảo hiểm được chuyển nhượng.

 Nghĩa vụ của người chuyển nhượng đối tượng bảo hiểm cũng đồng thời được chuyển cho người được chuyển nhượng đối tượng bảo hiểm. Kể cả trách nhiệm liên quan đến những khiếu nại do người bảo hiểm đã đưa ra trước đó đối với người chuyển nhượng đối tượng bảo hiểm.

 Điều 214.

 1- Việc chuyển quyền theo hợp đồng bảo hiểm hàng hải có cấp đơn bảo hiểm được thực hiện cùng với việc chuyển nhượng đơn bảo hiểm.

 2- Việc chuyển nhượng đơn bảo hiểm được giải quyết theo nguyên tắc như chuyển nhượng vận đơn.

 Điều 215.

 1- Nếu đối tượng bảo hiểm là tầu biển, thì việc chuyển các quyền theo hợp đồng bảo hiểm phải được người bảo hiểm đồng ý trước.

 2- Nếu tầu đang hành trình ở thời điểm được chuyển nhượng cho người khác, thì các quyền theo hợp đồng bảo hiểm tầu không được chuyển ngay cho người được chuyển nhượng tầu mà hợp đồng bảo hiểm vẫn giữ nguyên hiệu lực cho đến khi tầu đó vào neo đậu tại cảng đầu tiên, sau khi được chuyển nhượng.

 MỤC D

 BẢO HIỂM BAO

 Điều 216.

 1- Bảo hiểm bao là loại bảo hiểm trọn gói, được áp dụng đối với đối tượng bảo hiểm là một loại hàng hoá hoặc một số loại hàng hoá mà người được bảo hiểm gửi đi hoặc nhận được trong một thời hạn nhất định.

 2- Người bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm bao có nghĩa vụ cấp theo yêu cầu người được bảo hiểm đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm cho mỗi chuyến hàng hoặc cho từng đơn vị hàng hoá.

 Điều 217.

 1- Người được bảo hiểm trong bảo hiểm bao có nghĩa vụ thông báo ngay cho người bảo hiểm biết sau khi nhận được các thông tin liên quan đến việc gửi hàng hoặc nhận được hàng và mỗi lần đều phải thông báo tên tầu, tuyến hành trình, hàng hoá và số tiền bảo hiểm, kể cả khi người bảo hiểm nhận được thông báo, thì có thể hàng đã được gửi hoặc đã đến cảng đích.

 2- Nếu người được bảo hiểm cố ý hoặc do cẩu thả mà không thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 1, Điều này, thì người bảo hiểm có quyền rút khỏi hợp đồng và vẫn được hưởng bảo hiểm phí tương tự như trong trường hợp hợp đồng được thực hiện đúng đắn.

 Điều 218.

 Các bên có quyền yêu cầu huỷ hợp đồng bảo hiểm bao với điều kiện phải thông báo cho nhau biết trước ba tháng về việc đó.

  

 MỤC E

 THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM HÀNG HẢI

 Điều 219.

 Người được bảo hiểm có nghĩa vụ nộp bảo hiểm phí cho người bảo hiểm ngay sau khi ký kết hợp đồng hoặc ngay khi được cấp đơn bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

 Điều 220.

 1- Người được bảo hiểm có nghĩa vụ báo ngay cho người bảo hiểm biết sau khi nhận được các thông tin liên quan đến sự thay đổi về các hiểm hoạ được bảo hiểm có khả năng đe doạ đối tượng bảo hiểm hoặc về tai nạn đã xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm và phải làm theo các chỉ dẫn của người bảo hiểm.

 2- Người bảo hiểm có quyền rút khỏi hợp đồng bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm đã vi phạm quy định nói tại khoản 1, Điều này.

  

 Điều 221.

 1- Trong trường hợp xảy ra tổn thất liên quan đến hiểm hoạ đã được bảo hiểm, người được bảo hiểm có nghĩa vụ tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngăn ngừa hoặc hạn chế tổn thất và bảo đảm cho việc thực hiện quyền khiếu nại của người bảo hiểm đối với người gây ra tổn thất. Khi thực hiện nghĩa vụ này, người được bảo hiểm phải thực hiện các chỉ dẫn của người bảo hiểm.

 2- Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với tổn thất xảy ra do người được bảo hiểm quá cẩu thả hoặc cố ý không thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều này.

 Điều 222.

 Người bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho người được bảo hiểm mọi chi phí hợp lý và cần thiết do người được bảo hiểm chi ra để ngăn ngừa hoặc hạn chế tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm, cũng như chi phí thực hiện những chỉ dẫn của người bảo hiểm quy định tại Điều 221 của Bộ luật này hoặc chi phí để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm và chi phí đóng góp vào tổn thất chung. Các chi phí này phải được bồi hoàn theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.

 Điều 223.

 Trong phạm vi số tiền bảo hiểm, người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất là hậu quả trực tiếp của hiểm hoạ được bảo hiểm và còn phải bồi hoàn những chi phí quy định tại Điều 222 của Bộ luật này, mặc dù tổng số tiền phải trả cho người được bảo hiểm có thể vượt quá số tiền bảo hiểm.

 Điều 224.

 Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những tổn thất xảy ra do hành động cố ý hoặc quá cẩu thả của người được bảo hiểm, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường các tổn thất phát sinh do sự sơ suất hoặc sai lầm của thuyền trưởng đồng thời cũng là người được bảo hiểm trong việc điều khiển, quản trị tầu và các tổn thất do lỗi của thuyền bộ, hoa tiêu.

 Điều 225.

 Khi bảo hiểm tầu và tiền cước vận chuyển, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về các tổn thất phát sinh do:

  1. a) Tầu không đủ khả năng an toàn đi biển vào lúc bắt đầu chuyến đi, trừ khi tầu có khuyết tật ẩn hoặc khi xảy ra các tình huống không thể tránh khỏi, mặc dù người được bảo hiểm đã có sự quan tâm thích đáng;
  2. b) Tuổi của tầu hoặc thời gian sử dụng;
  3. c) Bốc lên tầu những chất hoặc vật liệu dễ nổ, dễ cháy hoặc những hàng hoá nguy hiểm khác, không phù hợp với những quy định về việc vận chuyển loại hàng này, nếu người được bảo hiểm biết nhưng người bảo hiểm lại không biết về việc đó.

 Điều 226.

 Khi bảo hiểm hàng hoá, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về các tổn thất phát sinh do:

  1. a) Tính chất tự nhiên của hàng hoá;
  2. b) Hàng bị rò chảy, hao hụt hoặc hao mòn tự nhiên;
  3. c) Bao bì không đúng quy cách hoặc không thích hợp;
  4. d) Chậm trễ trong việc cung ứng hàng hoá.

 Điều 227.

 Trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những tổn thất của đối tượng bảo hiểm xảy ra do chiến tranh hoặc những hoạt động quân sự với bất kỳ tính chất nào và hậu quả của nó; bị cưỡng đoạt; gây rối, đình công hoặc những tổn thất xảy ra do hành động tịch thu, trưng dụng, bắt giữ, phá huỷ tầu hoặc hàng hoá theo mệnh lệnh quân sự hoặc lệnh của chính quyền dân sự.

 Điều 228.

 Trong trường hợp bồi thường tổn thất liên quan đến các trách nhiệm trong tai nạn đâm va, thì ngoài trách nhiệm bồi thường các tổn thất của đối tượng bảo hiểm, người bảo hiểm còn có trách nhiệm bồi thường các tổn thất của người thứ ba, nếu người được bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về các tổn thất do tai nạn đâm va, mặc dù tổng số tiền bồi thường có thể vượt quá số tiền bảo hiểm.

 Điều 229.

 Trong trường hợp xảy ra hiểm hoạ thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm, thì người bảo hiểm có thể bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm để được miễn mọi trách nhiệm khác theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, người bảo hiểm phải thông báo ý định này cho người được bảo hiểm biết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của người được bảo hiểm về hiểm hoạ đã xảy ra và hậu quả của nó. Trong trường hợp này người bảo hiểm không được đòi quyền sở hữu đối với đối tượng bảo hiểm, nếu số tiền bảo hiểm thấp hơn giá trị bảo hiểm.

 Ngoài việc bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm, người bảo hiểm còn phải bồi hoàn những chi phí nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế tổn thất hoặc để sửa chữa, khôi phục đối tượng bảo hiểm mà người được bảo hiểm đã chi trước khi nhận được thông báo của người bảo hiểm.

 Điều 230.

 1- Trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng, người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm đối với các tổn thất xảy ra kế tiếp nhau, mặc dù tổng số giá trị tổn thất có thể vượt quá số tiền bảo hiểm.

 2- Nếu đối tượng bảo hiểm bị tổn thất bộ phận mà vẫn chưa được sửa chữa hoặc bồi thường và tiếp sau đó lại xảy ra tổn thất toàn bộ, thì người được bảo hiểm chỉ được bồi thường tổn thất toàn bộ.

 3- Những quy định tại khoản 1 và khoản 2, Điều này không loại trừ trách nhiệm của người bảo hiểm đối với việc bồi hoàn chi phí liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ nói tại Điều 221 của Bộ luật này.

  

 MỤC G

 THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG KHI CÓ NGƯỜI

 THỨ BA PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ TỔN THẤT

 Điều 231.

 Khi đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm, người bảo hiểm được quyền truy đòi người thứ ba về trách nhiệm bồi thường tổn thất trong phạm vi số tiền đã trả. Người bảo hiểm thực hiện quyền này theo đúng các thể thức quy định đối với người được bảo hiểm.

 Điều 232.

 1- Người được bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho người bảo hiểm mọi tin tức, tài liệu, bằng chứng và đồng thời phải áp dụng những biện pháp cần thiết để người bảo hiểm có thể thực hiện có hiệu quả quyền truy đòi người thứ ba.

 2- Nếu người được bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ nói tại khoản 1, Điều này hoặc có lỗi làm cho quyền truy đòi của người bảo hiểm không thể thực hiện được thì người bảo hiểm được miễn trả toàn bộ tiền bồi thường hoặc được giảm ở mức độ thích đáng.

 3- Nếu người được bảo hiểm đã nhận tiền bồi thường tổn thất do người thứ ba trả, thì người bảo hiểm chỉ có nghĩa vụ trả phần tiền chênh lệch giữa số tiền phải bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm và số tiền mà người được bảo hiểm đã nhận từ người thứ ba.

 Điều 233.

 1- Theo yêu cầu của người được bảo hiểm, người bảo hiểm phải cam kết thanh toán chi phí đóng góp vào tổn thất chung trong phạm vi số tiền bảo hiểm.

 2- Khi lập bản phân bổ tổn thất chung, người được bảo hiểm có nghĩa vụ quan tâm thích đáng các quyền lợi của người bảo hiểm.

  

 MỤC H

 TỪ BỎ ĐỐI TƯỢNG BẢO HIỂM

 Điều 234.

 1- Người được bảo hiểm có quyền tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm và chuyển cho người bảo hiểm quyền, nghĩa vụ của mình liên quan đến đối tượng bảo hiểm để được nhận tiền bồi thường tổn thất toàn bộ, nếu việc đối tượng bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ là không thể tránh khỏi hoặc việc ngăn ngừa tổn thất đó sẽ gây ra các chi phí quá cao so với giá trị của đối tượng bảo hiểm.

 2- Quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm có thể được áp dụng trong trường hợp tầu biển bị mất tích, bị cưỡng đoạt, bị hư hỏng do tai nạn mà không thể sửa chữa được hoặc chi phí sửa chữa, phục hồi, chuộc tầu là không có hiệu quả kinh tế.

 3- Quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm nói tại khoản 2, Điều này cũng được áp dụng đối với hàng hoá, kể cả khi chi phí sửa chữa, vận chuyển hàng hoá đến cảng đích là quá cao so với giá trị thị trường của hàng hoá đó tại cảng đích.

 Điều 235.

 1- Tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm phải làm bằng văn bản và phải ghi rõ căn cứ để áp dụng quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm.

 2- Tuyên bố từ bỏ phải được gửi cho người bảo hiểm trong thời hạn hợp lý, nhưng không quá một trăm tám mươi ngày, kể từ ngày người được bảo hiểm biết về các sự kiện làm căn cứ để áp dụng quyền từ bỏ hoặc trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày hết hạn bảo hiểm trong các trường hợp tầu hoặc hàng hoá bị cưỡng đoạt hoặc bị mất quyền chiếm hữu vì những nguyên nhân khác. Sau các thời hạn nói trên, thì người được bảo hiểm bị mất quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm, nhưng vẫn có quyền đòi bồi thường tổn thất.

 3- Việc từ bỏ đối tượng bảo hiểm không được kèm theo bất kỳ điều kiện nào. Nếu việc từ bỏ đã được chấp nhận, thì người bảo hiểm và người được bảo hiểm đều không được thay đổi quyết định của mình.

 Điều 236.

 Khi tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm, người được bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho người bảo hiểm những thông tin liên quan đến quyền về tài sản đối với đối tượng bảo hiểm, các khoản bảo hiểm và hạn chế khác mà người được bảo hiểm biết.

 Điều 237.

 1- Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được tuyên bố từ bỏ, người bảo hiểm có nghĩa vụ thông báo cho người được bảo hiểm biết là chấp nhận hoặc từ chối việc từ bỏ. Sau thời hạn này, người bảo hiểm bị mất quyền từ chối.

 2- Quyền và nghĩa vụ liên quan đến đối tượng bảo hiểm được chuyển sang cho người bảo hiểm ngay sau khi người bảo hiểm thông báo chấp nhận từ bỏ; người bảo hiểm có thể không đòi quyền và nghĩa vụ này.

 3- Nếu việc thông báo từ bỏ được thực hiện đúng quy định mà người bảo hiểm không chấp nhận việc từ bỏ, thì người được bảo hiểm vẫn có quyền đòi bồi thường.

 Điều 238.

 1- Trong trường hợp xảy ra tổn thất toàn bộ thực tế do tầu bị mất tích cùng với hàng hoá trên tầu, người được bảo hiểm có thể đòi người bảo hiểm bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm mà không phải tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm theo quy định tại Điều 235 của Bộ luật này.

 2- Trong trường hợp tầu bị mất tích là tầu được bảo hiểm có thời hạn, người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường, nếu đã nhận được tin cuối cùng về tầu trước khi kết thúc thời hạn bảo hiểm. Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường, nếu chứng minh được tầu bị mất tích sau khi thời hạn bảo hiểm kết thúc.

 Điều 239.

 Nếu người bảo hiểm đã trả tiền bồi thường mà sau đó tầu lại thoát khỏi hiểm hoạ, thì người bảo hiểm có quyền yêu cầu người được bảo hiểm tiếp tục sở hữu tầu đó và hoàn lại số tiền đã được bồi thường, sau khi khấu trừ tiền bồi thường tổn thất bộ phận của tầu, với điều kiện tổn thất bộ phận đó là hậu quả trực tiếp của hiểm hoạ được bảo hiểm.

 MỤC I

 THANH TOÁN TIỀN BỒI THƯỜNG

 Điều 240.

 Khi thanh toán tiền bồi thường tổn thất của đối tượng bảo hiểm, người bảo hiểm có quyền yêu cầu người được bảo hiểm trình bày về sự kiện liên quan, xuất trình tài liệu, bằng chứng cần thiết cho việc đánh giá sự kiện và mức độ tổn thất.

  

 CHƯƠNG XVII

 GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HÀNG HẢI

 Điều 241.

 1- Các bên liên quan có thể giải quyết tranh chấp hàng hải bằng thương lượng hoặc thoả thuận đưa tranh chấp ra giải quyết trước trọng tài hoặc khởi kiện trước toà án.

 2- Các tranh chấp hàng hải được trọng tài hoặc toà án giải quyết theo thẩm quyền, thủ tục do pháp luật quy định.

 Điều 242.

 Nếu hợp đồng hàng hải có ít nhất một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, thì các bên tham gia hợp đồng có thể thoả thuận đưa tranh chấp ra giải quyết trước trọng tài hoặc toà án ở nước ngoài.

  

 CHƯƠNG XVIII

 ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

  

 Điều 243.

 Bộ luật hàng hải Việt Nam có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1991.

 Điều 244.

 Những quy định trước đây về hoạt động hàng hải trái với Bộ luật này đều bãi bỏ.

  

 Bộ luật đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1990.

  

CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
(Đã ký)
Lê Quang Đạo