Vi phạm pháp luật là hành vi trái với quy định của pháp luật, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, gây thiệt hại hay đe dọa gây thiệt hại cho xã hội phải chịu trách nhiệm pháp lý. Để một hành vi được xác định là vi phạm pháp luật, không chỉ cần căn cứ vào hành động cụ thể mà còn phải xét đến các yếu tố cấu thành bên trong lẫn bên ngoài hành vi đó. Việc xác định chính xác cấu thành vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong phân biệt hành vi hợp pháp với hành vi trái pháp luật đồng thời là cơ sở để xử lý ngăn chặn giáo dục pháp lý trong xã hội.
Khái niệm cấu thành vi phạm pháp luật
Cấu thành vi phạm pháp luật là tổng hợp các yếu tố pháp lý cần đủ để xác định một hành vi nào đó là hành vi vi phạm pháp luật. Nếu thiếu một trong các yếu tố cấu thành thì hành vi đó không thể bị coi là vi phạm pháp luật không thể xử lý theo các chế tài của pháp luật. Cấu thành vi phạm pháp luật là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đúng loại trách nhiệm pháp lý như hành chính, dân sự, hình sự hay kỷ luật.
Có mấy yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật
Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, cấu thành vi phạm pháp luật bao gồm bốn yếu tố cơ bản. Mỗi yếu tố giữ một vai trò riêng biệt có mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc thiếu vắng bất kỳ yếu tố nào cũng dẫn tới việc hành vi không đủ điều kiện để coi là vi phạm pháp luật.
Bốn yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật
Thứ nhất là mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Đây là yếu tố thể hiện ra bên ngoài hành vi vi phạm pháp luật. Mặt khách quan bao gồm hành vi cụ thể được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động, hậu quả xảy ra nếu có, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi với hậu quả cùng với các tình tiết liên quan như thời gian, địa điểm, công cụ phương tiện được sử dụng.
Ví dụ trong một vụ việc cố ý gây thương tích, hành vi đánh người chính là hành động trái pháp luật, công cụ như hung khí, địa điểm gây án hậu quả là thương tích cụ thể đều nằm trong mặt khách quan. Nếu không có hành vi xảy ra, không có hậu quả hay không chứng minh được mối liên hệ giữa hành vi với hậu quả thì chưa thể xác định vi phạm.
Thứ hai là mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Đây là yếu tố thuộc về tâm lý, ý thức bên trong của người thực hiện hành vi. Mặt chủ quan bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của hành vi. Trong đó lỗi là yếu tố quan trọng nhất, có thể là lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Một người chỉ bị xem là vi phạm pháp luật khi có lỗi trong hành vi của mình, tức là biết hành vi đó là sai nhưng vẫn thực hiện hay không cẩn trọng dẫn đến vi phạm.
Ví dụ một người tham gia giao thông biết rõ tín hiệu đèn đỏ cấm đi nhưng vẫn cố tình vượt đèn thì được xác định là vi phạm có lỗi cố ý. Nếu do không chú ý quan sát mà gây tai nạn thì được xem là lỗi vô ý. Những trường hợp không có lỗi như hành vi phòng vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết sẽ không bị xem là vi phạm pháp luật.
Thứ ba là chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể là người hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện hành vi vi phạm. Năng lực này bao gồm năng lực nhận thức điều khiển hành vi (đối với cá nhân) hoặc năng lực hành vi pháp lý (đối với tổ chức). Để một người bị xử lý pháp luật, họ cần đạt độ tuổi nhất định theo quy định có đủ năng lực hành vi.
Ví dụ một cá nhân từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử lý hình sự trong một số tội nghiêm trọng. Một tổ chức vi phạm luật môi trường cũng phải là pháp nhân thương mại có đăng ký hoạt động có hành vi trái luật cụ thể do người có thẩm quyền thực hiện.
Thứ tư là khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể là đối tượng bị xâm hại bởi hành vi vi phạm. Đây có thể là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ như tính mạng, tài sản, danh dự, trật tự an toàn xã hội hay môi trường. Khi hành vi trái luật làm tổn hại hoặc đe dọa tổn hại đến khách thể thì đó là dấu hiệu chứng minh mức độ nguy hiểm của hành vi đối với xã hội.
Chẳng hạn trong hành vi trộm cắp, khách thể bị xâm phạm là quyền sở hữu tài sản của người khác. Trong hành vi gây ô nhiễm nguồn nước, khách thể bị ảnh hưởng là môi trường sống với sức khỏe cộng đồng.
Những yếu tố không cấu thành vi phạm pháp luật
Bên cạnh bốn yếu tố cơ bản trên, cần phân biệt các yếu tố liên quan nhưng không được xem là thành phần cấu thành. Ví dụ như hậu quả của hành vi không phải lúc nào cũng cần thiết. Có những vi phạm có tính nguy hiểm nhưng chưa gây hậu quả cụ thể vẫn bị xử lý. Hoặc tình trạng vi phạm lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhân thân tốt chỉ là tình tiết giảm nhẹ chứ không làm thay đổi bản chất hành vi vi phạm.
Một số bài tập tình huống về cấu thành vi phạm pháp luật
Tình huống một
Một học sinh cấp ba tự ý sử dụng xe máy đi học mà không có giấy phép lái xe. Khi bị kiểm tra, em này trình bày là lần đầu vi phạm, không cố ý gây nguy hiểm. Phân tích yếu tố cấu thành
Trong trường hợp này mặt khách quan là hành vi điều khiển xe máy trái quy định. Chủ thể là cá nhân chưa đủ điều kiện pháp lý để lái xe. Mặt chủ quan thể hiện lỗi cố ý vì biết rõ không có bằng lái. Khách thể bị xâm phạm là trật tự an toàn giao thông.
Tình huống hai
Một doanh nghiệp thải nước chưa xử lý ra sông gây chết cá ảnh hưởng đến sinh hoạt người dân. Sau khi phát hiện doanh nghiệp xin được khắc phục hậu quả. Xét hành vi có đủ yếu tố cấu thành không.
Mặt khách quan là hành vi xả thải ra sông. Mặt chủ quan là lỗi do không tuân thủ quy trình xử lý môi trường. Chủ thể là tổ chức có tư cách pháp nhân. Khách thể bị xâm hại là môi trường và sức khỏe cộng đồng. Như vậy hành vi đủ cấu thành vi phạm pháp luật có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự tùy mức độ.
Việc nắm vững bốn yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật là điều kiện bắt buộc để xác định một hành vi có phải là vi phạm pháp luật hay không. Điều này không chỉ quan trọng trong lý luận mà còn rất thiết thực trong công tác tư pháp, hành chính, giáo dục pháp luật. Mỗi cá nhân với tổ chức cần hiểu rõ các yếu tố này để tránh hành vi vi phạm, đồng thời góp phần xây dựng một xã hội thượng tôn pháp luật công bằng hơn.