Luật Công Đoàn Số 12/2012/QH13: Tài Chính Công Đoàn và Hiệu Lực Của Luật

Luật Công đoàn số 12/2012/QH13 là một trong những đạo luật quan trọng của Việt Nam. Được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2013. Luật này quy định về tổ chức, hoạt động của các công đoàn cùng quyền lợi của người lao động. Trong khuôn khổ bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu về các quy định liên quan đến tài chính công đoàn theo Luật Công đoàn 2012 với liệu luật này còn hiệu lực hay không.

Tài Chính Công Đoàn Theo Luật Công Đoàn 2012

Theo Luật Công đoàn số 12/2012/QH13 tài chính công đoàn là một phần quan trọng trong việc duy trì phát triển hoạt động của các tổ chức công đoàn. Các quy định về tài chính công đoàn trong Luật Công đoàn 2012 được quy định tại các điều khoản sau đây:

1. Nguồn Thu Của Công Đoàn

Theo Điều 24 của Luật Công đoàn 2012, các tổ chức công đoàn có nguồn tài chính từ các nguồn chủ yếu sau

  • Đóng góp của đoàn viên công đoàn: Đây là nguồn thu chính của công đoàn. Mỗi đoàn viên công đoàn phải đóng một phần thu nhập của mình cho tổ chức công đoàn, tỷ lệ đóng góp này thường là 1% lương của đoàn viên, nhưng có thể thay đổi tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi tổ chức công đoàn.

  • Quỹ công đoàn cấp trên: Ngoài việc thu từ đoàn viên, các công đoàn cấp dưới cũng có thể nhận sự hỗ trợ tài chính từ công đoàn cấp trên bao gồm Công đoàn ngành, công đoàn tổng liên đoàn.

  • Nguồn tài trợ, các khoản thu khác: Công đoàn có thể nhận các khoản tài trợ từ các tổ chức trong lẫn ngoài nước đồng thời có thể thu từ các hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động hợp pháp khác.

12   qh13

2. Quản Lý Sử Dụng Tài Chính Công Đoàn

Luật Công đoàn 2012 cũng quy định về cách thức quản lý sử dụng tài chính công đoàn. Theo đó, các tổ chức công đoàn phải thực hiện công tác quản lý tài chính minh bạch, bảo đảm việc sử dụng đúng mục đích, hợp lý có sự giám sát của các cơ quan có thẩm quyền. Mọi nguồn thu với chi tiêu phải được công khai báo cáo định kỳ.

Đặc biệt, Điều 25 của Luật Công đoàn 2012 nhấn mạnh rằng tài chính công đoàn phải được sử dụng chủ yếu vào các hoạt động sau:

  • Phục vụ quyền lợi của đoàn viên: Công đoàn có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người lao động, đồng thời tổ chức các hoạt động nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho đoàn viên.

  • Tổ chức các hoạt động xã hội, đào tạo nghề: Công đoàn có nhiệm vụ tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật và các hoạt động xã hội khác nhằm phát triển kỹ năng của người lao động.

  • Hỗ trợ cho các hoạt động phong trào công đoàn: Ngoài các hoạt động chăm lo cho đoàn viên, công đoàn cũng cần sử dụng tài chính để tổ chức các phong trào đấu tranh cho quyền lợi của người lao động thực hiện các hoạt động chính trị, xã hội.

3. Kiểm Tra Tài Chính Công Đoàn

Điều 26 của Luật Công đoàn 2012 quy định rằng công đoàn cấp trên sẽ có trách nhiệm kiểm tra tài chính của các công đoàn cấp dưới. Việc kiểm tra tài chính này nhằm đảm bảo rằng các nguồn thu chi của công đoàn được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả mà không có hành vi lạm dụng tài chính.

Luật Công Đoàn 2012 Còn Hiệu Lực Không

Mặc dù Luật Công đoàn 2012 đã được áp dụng từ lâu có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của các tổ chức công đoàn, nhưng đến nay, Luật Công đoàn 2012 đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2019. Chính xác hơn, Luật Công đoàn sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã được Quốc hội thông qua vào ngày 20 tháng 11 năm 2019 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021.

Vì vậy Luật Công đoàn 2012 không còn hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2021, thay vào đó là Luật Công đoàn sửa đổi, bổ sung năm 2019. Mặc dù vậy nhiều quy định từ Luật Công đoàn 2012 vẫn được giữ lại để phát triển trong bản sửa đổi bổ sung năm 2019. Những thay đổi này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động với phát triển tổ chức công đoàn.

Luật Công đoàn số 12/2012/QH13 là một đạo luật quan trọng trong bảo vệ quyền lợi của người lao động tại Việt Nam. Tài chính công đoàn theo luật này chủ yếu đến từ đóng góp của đoàn viên với các nguồn tài trợ khác đồng thời được quản lý một cách minh bạch có sự kiểm tra của các cấp công đoàn.