Luật làm thơ lục bát với song thất lục bát trong sáng tác dân gian

Thơ lục bát với thơ song thất lục bát là hai thể thơ truyền thống nổi bật của văn học Việt Nam. Cả hai thể thơ đều có luật gieo vần chặt chẽ gắn với nhịp điệu và vẻ đẹp âm thanh rất riêng. Việc nắm rõ luật của từng thể thơ giúp người viết kiểm soát điệu thơ tạo nhịp gợi cảm xúc đồng thời giữ được nét truyền thống trong sáng tác hiện đại. Bài viết sau đây phân tích luật làm thơ lục bát trước hết, sau đó đi sâu vào luật gieo vần trong lục bát rồi đến thể song thất lục bát với cấu trúc phức tạp hơn.

Luật làm thơ lục bát

Luật làm thơ lục bát quy định mỗi câu sáu từ tiếp theo một câu tám từ. Số chữ trong mỗi dòng có thể dao động giữa sáu chữ, năm chữ, bảy chữ nhưng phải bố cục rõ ràng là dòng lục sau đó là dòng bát. Đọc lên phải tạo nhịp 6 – 8 rất dễ cảm nhận khi đọc to. Nhịp đặc trưng của lục bát khiến câu thơ ngân vang, du dương dễ ghi nhớ.

Mỗi dòng thơ có một vần cuối, cho phép tạo vần liên tiếp theo quy luật âm vần. Vần cuối của dòng lục được đọc lại ở vần thứ sáu của dòng bát. Vần cuối của dòng bát lại trở thành vần cho dòng lục tiếp theo. Nhờ vậy dòng lục và dòng bát tạo chuỗi vần nối tiếp nhau. Nhờ vần nối chiếu này mà thơ lục bát dễ đọc thuộc có nhạc tính.

Về thanh điệu, dòng lục thường chọn thanh bằng ở vị trí 2 và 4 bắt buộc vị trí 6 là thanh trắc. Dòng bát có vị trí thanh bằng ở vị trí 2, 4, 6, vị trí 8 là thanh trắc. Giúp tạo thanh trầm bổng thể hiện tính nhịp điệu tự nhiên.

Đối với người làm thơ lục bát, một cú pháp đầy đủ gồm nhiều khổ với dòng 6 – dòng 8 nhìn giống như đôi câu. Một bài thường có ít nhất ba đôi câu, tức ba khổ để tạo thành hình khối ổn định.

Luật gieo vần trong thơ lục bát

Luật gieo vần là phần quan trọng nhất vì vần góp phần dẫn dắt nhịp điệu của bài thơ. Giữa các câu khối vần được liên kết

Dòng lục hết bằng một vần nhất định. Dòng bát đi ngay sau phải có vần ở vị trí thứ sáu trùng với vần cuối của dòng lục. Sau đó dòng bát có vần mình thứ hai ở vị trí cuối câu lại trở thành vần của dòng lục kế tiếp tại vị trí cuối câu thứ sáu.

Ví dụ nếu khổ đầu có dòng lục vần hoa, dòng bát sẽ phải vần hoa ở vị trí sáu ở cuối câu. Khổ kế sau từ dòng lục sẽ tiếp tục dùng vần cuối của dòng bát khổ trước. Vòng vần liên tục tạo nên kết cấu sáng tạo mạch suối chữ nối dài.

Luật ngắt nhịp giữa các khổ được phân biệt rõ. Phải tạo cảm giác liền mạch nhưng không rối, người đọc có thể dừng nghỉ phù hợp vào giữa khổ hay giữa đôi câu chính nhờ dấu chấm hay dấu phẩy. Trong thơ truyền thống, dấu ngắt được cân nhắc kỹ để vừa định hình nhịp vừa giúp câu thơ trong sáng dễ hiểu.

Một điểm lưu ý là về thanh điệu. Nhà thơ không bắt buộc phải đặt chữ vần là thanh bằng hay thanh trắc nhưng nên chọn để tránh gãy nhịp. Thanh bằng vần đi vào bài thơ giúp tạo cảm giác êm tai. Cũng có khi chọn vần thanh trắc để tạo vẻ dứt khoát hay bất ngờ nhưng phải cân nhắc để giữ nhịp thanh điệu cho cả bài.

Luật làm thơ song thất lục bát

Thơ song thất lục bát là kết hợp giữa hai câu song thất (7 chữ + 7 chữ) tiếp theo một câu lục bát. Cấu trúc vần xen kẽ cần chú ý một số điểm như sau

Cấu trúc một khổ song thất lục bát gồm bốn câu. Câu thứ nhất và thứ hai mỗi câu có 7 chữ, câu thứ ba là câu lục, câu thứ tư là câu bát.

Luật gieo vần thể hiện trong 4 dòng này với bốn vần khác nhau thường ký hiệu a – b – c – b

Câu 1 (7 chữ) vần cuối là a
Câu 2 (7 chữ) vần cuối là b
Câu 3 (6 chữ) vần cuối là b
Câu 4 (8 chữ) vần ở vị trí sáu lặp lại vần b ở câu 2 và vần cuối là c

Tiếp đến nếu có khổ tiếp theo thì vần c tương ứng với khổ kế tiếp sẽ lặp lại ở vị trí cuối câu lục khổ sau, rồi vòng vần mới sẽ tạo từ câu song thất đầu khổ kế tiếp. Điều này tạo chuỗi liên kết giữa các khổ theo cấu trúc a b b c // d e e f // gh h i //…

Thanh điệu của từng dòng cũng cần tuân theo quy tắc. Câu 7 chữ thường đặt trạng thái bằng hoặc trắc xen kẽ, tự nhiên tạo đà để câu lục bát sau đó giữ nguyên luật thanh bình – trắc đã nêu. Khi kết hợp, đọc thành bốn câu một khổ thì giai điệu nhịp điệu của mỗi dòng có sự khác biệt tạo chiều sâu gợi tả cảm xúc.

So sánh ứng dụng

Thơ lục bát có cấu trúc nhẹ nhàng, vòng vần nối dài, nhịp điệu mượt mà phù hợp với ca dao truyền thống phù hợp với đề tài tình yêu, thiên nhiên, dân gian. Trong khi đó thơ song thất lục bát giúp bài thơ trở nên phong phú hơn, có sắc thái mạnh mẽ hơn thích hợp với đề tài trang trọng, bi hùng miêu tả thiên nhiên hùng vĩ bộc lộ cảm xúc sâu sắc.

Với người viết hiện đại nên nắm vững luật cơ bản, sau đó có thể linh hoạt sáng tạo. Ví dụ có thể phá vần nhẹ nhưng giữ nhịp, chọn vần thanh trắc để tạo điểm nhấn cho chủ đề cụ thể. Tuy nhiên nếu phá luật quá nhiều thì dễ mất chất dân tộc và âm điệu truyền thống.

Luật làm thơ lục bát và song thất lục bát phản ánh một nền văn hóa rất chú trọng âm vận với giai điệu. Khi sử dụng đúng luật người viết tạo ra được những câu thơ giàu nhạc tính dễ đi vào lòng người. Nếu muốn phá luật nên bắt đầu từ nắm chắc luật cơ bản. Kết hợp hai thể thơ hay phá luật một cách có chủ đích cũng là cách thể hiện tài năng sáng tạo. Điều quan trọng nhất là qua từng câu thơ người viết chạm được vào trái tim người đọc bằng nhịp điệu truyền cảm, ca từ tinh tế cùng giai điệu ngàn đời.