Luật Nuôi con nuôi số 52 năm 2010 được Quốc hội thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 2011. Là văn bản pháp lý đầu tiên chuyên biệt điều chỉnh toàn bộ quy trình nhận nuôi trong nước với có yếu tố nước ngoài bảo vệ quyền lợi cho cả con nuôi và cha mẹ nuôi. Sau hơn một thập kỷ áp dụng luật vẫn giữ nguyên hiệu lực cho đến nay được bổ sung sửa đổi bởi nhiều nghị định hướng dẫn.
Mục tiêu với phạm vi điều chỉnh
Luật quy định rõ mục đích của việc nuôi con nuôi là xác lập mối quan hệ cha mẹ con bền vững lâu dài nhằm bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho trẻ em. Phạm vi áp dụng bao gồm cá nhân tổ chức ở trong nước và nước ngoài khi nhận trẻ em làm con nuôi. Luật xác định đầy đủ khái niệm nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, con nuôi, nuôi con nuôi trong nước hay có yếu tố nước ngoài cùng gia đình thay thế với cơ sở nuôi dưỡng.
Nguyên tắc thứ tự ưu tiên nhận con nuôi
Luật đưa ra những nguyên tắc cơ bản là tự nguyện bình đẳng phù hợp đạo đức xã hội bảo vệ quyền lợi trẻ em. Ưu tiên được nhận nuôi là người thân trong gia đình như cô chú cô, ruột thịt, rồi mới tới công dân trong nước, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam rồi tới người Việt định cư ở nước ngoài với người nước ngoài định cư ở nước ngoài.
Thẩm quyền thủ tục đăng ký
Việc nuôi con nuôi trong nước được đăng ký tại ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận hoặc người được giới thiệu thường trú. Với trường hợp có yếu tố nước ngoài, đăng ký tại sở tư pháp tỉnh hay cơ quan đại diện ngoại giao. Trường hợp chấm dứt nuôi con nuôi thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án nhân dân theo thủ tục dân sự.
Quyền nghĩa vụ hệ quả pháp lý
Kể từ ngày trao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi tồn tại đầy đủ quyền nghĩa vụ như quan hệ cha mẹ con. Con nuôi có quyền biết về nguồn gốc xuất thân. Cha mẹ đẻ chấm dứt quyền nghĩa vụ chăm sóc, đại diện đối với con nuôi. Việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi do cha mẹ nuôi, con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc cơ quan tổ chức đề nghị nếu có cơ sở như không đảm bảo chăm sóc, vi phạm nghiêm trọng các điều cấm hay phát sinh mâu thuẫn.
Các hành vi bị cấm
Luật liệt kê chi tiết các hành vi nghiêm cấm như lợi dụng nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục, buôn bán trẻ em, giả mạo giấy tờ, phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi cũng như lợi dụng chính sách dân số hay ưu ái để hưởng chính sách. Ông bà, cha mẹ ruột dưới các mức độ nhân thân không được nhận nuôi con cháu ruột thịt.
Quy định theo dõi báo cáo
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi con nuôi đăng ký có nhiệm vụ theo dõi tình hình phát triển của trẻ sau nuôi trong vòng ba năm với báo cáo sáu tháng một lần. Mục đích là đảm bảo con nuôi được chăm sóc phát triển an toàn hòa nhập gia đình cộng đồng.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài với tổ chức quốc tế
Trường hợp nuôi trẻ có yếu tố nước ngoài thì Luật quy định rõ đối tượng được quyền nhận, thẩm quyền trao chứng nhận, thủ tục đăng ký tại sở tư pháp. Luật quy định rõ việc phối hợp làm thủ tục đưa con nuôi ra nước ngoài đảm bảo thông tin đầy đủ. Các tổ chức phi lợi nhuận nước ngoài muốn hỗ trợ nhận con nuôi tại Việt Nam phải có giấy phép chịu trách nhiệm tư vấn tìm gia đình phù hợp, báo cáo định kỳ, hỗ trợ hòa nhập văn hóa Việt Nam.
Văn bản hướng dẫn cập nhật năm 2025
Nghị định 19 ban hành năm 2011 hướng dẫn hồ sơ, trình tự, lệ phí, các quy định chi tiết khi thực hiện Luật. Năm 2019, nghị định 24 bổ sung quy trình đăng ký có yếu tố nước ngoài. Đáng chú ý năm 2025, Nghị định 06 sửa đổi một số nội dung như rà soát, tìm gia đình thay thế định kỳ, xử lý vi phạm tẩy xoá hồ sơ, làm sai lệch thông tin cả bổ sung quy định về thời hạn vượt quá 5 năm cho các trường hợp nuôi trước khi luật có hiệu lực.
Hiệu lực hiện tại chờ sửa đổi
Hiện Luật số 52 năm 2010 vẫn còn hiệu lực áp dụng. Chưa có dự thảo Luật mới thay thế toàn diện. Các điều chỉnh mới đều thông qua hình thức nghị định. Theo đó Luật vẫn duy trì hiệu lực toàn bộ nội dung cơ bản, được hỗ trợ bằng các nghị định hướng dẫn chi tiết.
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 là bộ luật nhân văn. Hoàn chỉnh khung pháp lý nhận trẻ em thành con trong nước hoặc quốc tế với thủ tục rõ ràng, trách nhiệm cụ thể cùng cơ chế giám sát chặt chẽ. Các nghị định hướng dẫn sửa đổi từ năm 2011 đến 2025 bảo đảm luật được áp dụng hiệu quả, minh bạch thực tế.