Pháp luật là một công cụ điều chỉnh xã hội không thể thiếu trong bất kỳ quốc gia nào. Trong đó luật quốc gia và pháp luật quốc gia là những khái niệm được sử dụng phổ biến nhưng không phải ai cũng hiểu đúng với phân biệt rõ ràng. Việc hiểu chính xác các khái niệm này không chỉ cần thiết cho người làm công tác pháp lý còn quan trọng đối với mỗi công dân trong quá trình sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Bài viết dưới đây sẽ làm rõ những khái niệm này đồng thời phân tích chủ thể và phương pháp điều chỉnh của luật quốc gia.
Luật quốc gia là gì
Luật quốc gia là một bộ phận của hệ thống pháp luật bao gồm tập hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành áp dụng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Đây là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc thể hiện ý chí của nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực cưỡng chế của nhà nước.
Luật quốc gia không đồng nhất với khái niệm luật theo nghĩa hình thức là văn bản do Quốc hội ban hành. Trong phạm vi bài viết này, luật quốc gia được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực thi hành trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia nhất định như luật, nghị định, thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Luật quốc gia điều chỉnh toàn bộ các quan hệ xã hội nảy sinh trong lãnh thổ quốc gia. Bao gồm các lĩnh vực như hình sự, dân sự, hành chính, lao động, kinh tế, thương mại, tài chính, đất đai, môi trường và nhiều lĩnh vực khác. Mỗi quốc gia có hệ thống luật riêng phù hợp với đặc điểm lịch sử, chính trị, văn hóa và điều kiện phát triển của mình.

Pháp luật quốc gia là gì
Pháp luật quốc gia là khái niệm rộng hơn luật quốc gia. Đây là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Pháp luật quốc gia bao gồm không chỉ các văn bản luật còn cả tập quán pháp, tiền lệ pháp, các nguyên tắc pháp lý chung được áp dụng trong thực tiễn.
Ở Việt Nam, pháp luật quốc gia chủ yếu tồn tại dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất tiếp đến là luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị định, thông tư, quyết định và các văn bản dưới luật khác.
Pháp luật quốc gia phản ánh bản chất nhà nước định hướng phát triển kinh tế xã hội và ý chí chung của cộng đồng dân cư. Đồng thời là công cụ để điều chỉnh hành vi của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân hay tổ chức bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Chủ thể của luật quốc gia
Chủ thể của luật quốc gia là các cá nhân hay tổ chức có năng lực pháp lý và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Tùy theo lĩnh vực điều chỉnh mà chủ thể có thể khác nhau nhưng nhìn chung có thể phân thành ba nhóm chính.
Nhóm thứ nhất là cá nhân công dân. Đây là chủ thể phổ biến nhất trong các quan hệ pháp luật. Cá nhân có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, lao động, hành chính, hình sự, hôn nhân gia đình, bảo hiểm xã hội và nhiều lĩnh vực khác.
Nhóm thứ hai là tổ chức. Bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị, đơn vị sự nghiệp và các cơ quan nhà nước. Các tổ chức này tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể độc lập có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lý.
Nhóm thứ ba là nhà nước và các cơ quan nhà nước. Trong nhiều quan hệ pháp luật, nhà nước không chỉ là người ban hành pháp luật mà còn là một chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đặc biệt trong các lĩnh vực như hành chính, tài chính công, đất đai, thuế và đầu tư công.
Mỗi chủ thể đều phải tuân thủ quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của họ được xác lập theo quy phạm pháp luật phù hợp với vị trí pháp lý và hành vi cụ thể trong quan hệ xã hội.
Phương pháp điều chỉnh của luật quốc gia
Phương pháp điều chỉnh pháp luật là cách thức mà nhà nước sử dụng để tác động đến các quan hệ xã hội thông qua hệ thống quy phạm pháp luật. Có hai phương pháp điều chỉnh cơ bản thường được áp dụng trong luật quốc gia bao gồm phương pháp mệnh lệnh đơn phương và phương pháp thỏa thuận bình đẳng.
Phương pháp mệnh lệnh đơn phương là phương pháp mang tính quyền lực nhà nước. Trong đó một bên có quyền ra quyết định mang tính bắt buộc còn bên còn lại phải thực hiện. Phương pháp này thường được sử dụng trong các lĩnh vực như hình sự, hành chính, tài chính công, quốc phòng, an ninh. Ví dụ khi công dân vi phạm pháp luật giao thông, cơ quan công an có quyền xử phạt hành chính theo quy định.
Phương pháp thỏa thuận bình đẳng là phương pháp điều chỉnh dựa trên sự đồng thuận của các bên tham gia quan hệ pháp luật. Chủ yếu được sử dụng trong các lĩnh vực dân sự, thương mại, lao động. Trong đó các bên có quyền tự do thỏa thuận nội dung giao dịch trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Ví dụ hai doanh nghiệp ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa dựa trên nguyên tắc tự nguyện với bình đẳng.
Ngoài hai phương pháp chính nêu trên, trong thực tiễn còn có sự kết hợp linh hoạt giữa nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau tùy theo đặc thù của từng ngành luật. Điều này giúp đảm bảo tính hiệu quả phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước và nhu cầu xã hội.
Luật quốc gia và pháp luật quốc gia là những khái niệm quan trọng cần được hiểu đúng để có thể áp dụng hiệu quả trong thực tiễn. Luật quốc gia là bộ phận cốt lõi trong hệ thống pháp luật còn pháp luật quốc gia là toàn bộ các quy định pháp lý có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Chủ thể của luật quốc gia có thể là cá nhân, tổ chức hoặc nhà nước, các quan hệ pháp luật được điều chỉnh bằng các phương pháp mệnh lệnh hay thỏa thuận tùy theo lĩnh vực.
Việc nắm rõ những nội dung này không chỉ giúp mỗi người tuân thủ pháp luật còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân trong các tình huống cụ thể. Trong một xã hội pháp quyền thì hiểu luật với sống theo luật là trách nhiệm cũng là nền tảng để xây dựng môi trường sống văn minh, công bằng, bền vững.
