Trong hệ thống pháp luật về bảo vệ quản lý tài nguyên thiên nhiên thì Luật Tài nguyên nước số 17 năm 2012 giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Là văn bản pháp lý toàn diện đầu tiên về tài nguyên nước tại Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 2012 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2014. Sau hơn một thập kỷ triển khai luật đã góp phần định hình phương pháp quản lý tài nguyên nước theo hướng có hệ thống, minh bạch hiệu quả. Tuy nhiên đến năm 2023 Quốc hội đã thông qua Luật Tài nguyên nước mới có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2024. Từ thời điểm đó Luật năm 2012 về cơ bản không còn hiệu lực trừ một số nội dung chuyển tiếp. Bài viết này sẽ phân tích chi tiết nội dung Luật năm 2012, vai trò trong thực tiễn với quy định hiện hành về hiệu lực pháp lý.
Tổng quan về Luật Tài nguyên nước năm 2012
Luật Tài nguyên nước 2012 được xây dựng trong bối cảnh nhu cầu sử dụng nước tăng cao, môi trường nước có dấu hiệu bị suy thoái xung đột lợi ích trong khai thác tài nguyên nước ngày càng rõ nét. Luật gồm 10 chương với 79 điều, quy định đầy đủ về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên nước. Nội dung bao gồm nguyên tắc quản lý, điều tra cơ bản, quy hoạch, khai thác sử dụng bảo vệ phòng chống khắc phục hậu quả do nước gây ra.
Một trong những điểm tiến bộ của Luật là quy định quản lý theo lưu vực sông thay vì theo ranh giới hành chính đặt nền tảng cho việc phối hợp liên vùng, liên tỉnh trong khai thác bảo vệ nguồn nước. Đồng thời luật cũng đưa ra khung pháp lý cho việc cấp phép thăm dò, khai thác, xả nước thải nhờ đó quản lý hành lang bảo vệ cùng cơ chế xử phạt vi phạm hành chính.
Vai trò và tác động của Luật trong hơn 10 năm thi hành
Luật năm 2012 đã giúp hệ thống quản lý tài nguyên nước dần chuyển từ kiểu điều hành phân tán sang mô hình quản lý tập trung, thống nhất. Nhờ có quy định cụ thể về cấp phép, thẩm quyền và trách nhiệm khiến việc khai thác nước dưới đất sử dụng nước mặt xả nước thải vào nguồn nước được kiểm soát tốt hơn.
Ngoài ra, Luật cũng đóng vai trò trong việc thúc đẩy điều tra lập quy hoạch tài nguyên nước, đặc biệt là các lưu vực sông liên tỉnh tạo cơ sở dữ liệu quan trọng phục vụ phát triển bền vững. Việc quy định hành lang bảo vệ nguồn nước góp phần giảm thiểu tác động của ô nhiễm từ hoạt động công nghiệp và đô thị hóa.
Về mặt xã hội Luật đã giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng và doanh nghiệp trong việc sử dụng tiết kiệm hợp lý tài nguyên nước. Các địa phương cũng chủ động xây dựng các đề án quản lý nguồn nước phối hợp liên vùng để phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở, thiên tai liên quan đến nước.
Hiệu lực pháp lý sau khi có Luật Tài nguyên nước năm 2023
Ngày 23 tháng 1 năm 2023, Quốc hội thông qua Luật Tài nguyên nước mới với nhiều điểm đổi mới, phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn cùng chiến lược phát triển bền vững. Luật mới có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2024 thay thế toàn bộ Luật số 17 năm 2012.
Từ thời điểm đó toàn bộ nội dung của Luật 2012 hết hiệu lực thi hành trừ các quy định chuyển tiếp được áp dụng cho các giấy phép đã cấp. Theo đó các tổ chức, cá nhân đang sử dụng nước hoặc đã được cấp phép khai thác xả thải theo quy định của Luật 2012 vẫn được tiếp tục thực hiện đến khi giấy phép hết hạn. Khi hết hạn việc cấp lại hay gia hạn hay điều chỉnh phải tuân theo quy định của Luật 2023.
Việc quy định cơ chế chuyển tiếp này có ý nghĩa bảo đảm tính liên tục và ổn định trong hoạt động kinh tế xã hội tránh gây xáo trộn cho các đơn vị đã được cấp phép trước đó. Đồng thời cũng tạo điều kiện để cơ quan quản lý nhà nước có thời gian chuẩn bị hướng dẫn đồng bộ hóa các văn bản dưới luật cho phù hợp với quy định mới.
Những điểm cần lưu ý trong giai đoạn chuyển tiếp
Trong giai đoạn chuyển tiếp từ Luật 2012 sang Luật 2023, các chủ thể khai thác sử dụng tài nguyên nước cần lưu ý những nội dung sau.
Thứ nhất, đối với các giấy phép được cấp theo Luật 2012, tổ chức cá nhân cần rà soát thời hạn, chuẩn bị hồ sơ điều chỉnh nếu có thay đổi về quy mô, vị trí, mục đích sử dụng.
Thứ hai, không áp dụng quy định mới của Luật 2023 để xử lý các giấy phép cũ trong thời gian còn hiệu lực, trừ trường hợp giấy phép được gia hạn hay điều chỉnh sau ngày 1 tháng 7 năm 2024.
Thứ ba, các hồ sơ xin cấp phép mới kể từ ngày Luật 2023 có hiệu lực phải tuân thủ đầy đủ các quy định mới, trong đó có yêu cầu cao hơn về báo cáo kỹ thuật, quan trắc, bảo vệ nguồn nước tham vấn cộng đồng.
Thứ tư, các cơ quan chức năng phải phối hợp chặt chẽ để không làm gián đoạn việc quản lý cấp phép, bảo đảm giải quyết đúng hạn, đúng quy trình tránh gây thiệt hại cho người dân với doanh nghiệp.
Đánh giá chung về sự chuyển đổi giữa hai luật
Việc thay thế Luật năm 2012 bằng Luật năm 2023 là bước đi tất yếu trong quá trình hiện đại hóa hệ thống pháp luật tài nguyên nước. Luật mới khắc phục các hạn chế trước đây về phân quyền, giám sát, công khai thông tin gắn quản lý nước với biến đổi khí hậu.
Tuy vậy, Luật năm 2012 vẫn đóng vai trò lịch sử quan trọng trong việc đặt nền móng pháp lý thay đổi tư duy với cách thức quản lý tài nguyên nước tại Việt Nam. Hơn một thập kỷ áp dụng luật đã giúp hệ thống quản lý nước hình thành rõ ràng có quy trình có công cụ điều hành hiệu quả hơn.
Chính việc chuyển tiếp linh hoạt giữa hai luật, đặc biệt là bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người đã được cấp phép cho thấy sự thận trọng trách nhiệm của Nhà nước trong xây dựng pháp luật tổ chức thực hiện.
Luật Tài nguyên nước số 17 năm 2012 là dấu mốc quan trọng trong xây dựng thể chế quản lý tài nguyên nước tại Việt Nam. Mặc dù hiện nay đã hết hiệu lực thi hành sau khi Luật năm 2023 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2024 nhưng luật vẫn còn giá trị tham khảo áp dụng đối với các trường hợp chuyển tiếp cụ thể. Việc nắm rõ sự thay đổi và các quy định liên quan sẽ giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng pháp luật góp phần bảo vệ tài nguyên nước bền vững phát triển kinh tế xã hội hài hòa với môi trường.