Lý luận nhận thức duy vật biện chứng

 Lý luận nhận thức duy vật biện chứng

 Lý luận nhận thức duy vật biện chứng là một bộ phận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; là khoa học nghiên cứu bản chất, quy luật, hình thức, phương pháp của nhận thức v.v để từ đó giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học- liệu con người có khả năng nhận thức được bản chất của thế giới hay không?

 1. Những nguyên tắc cơ bản để xây dựng lý luận nhận thức duy vật biện chứng

a. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất đối với ý thức; nhận thức có nguồn gốc từ thế giới vật chất, trong đó cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất là thực tiễn. Con người là chủ thể của nhận thức bởi nó là chủ thể trong hoạt động thực tiễn của mình.

 b. Thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người.

 Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan tích cực, chủ động và sáng tạo; về nguyên tắc, không có cái gì là không thể biết mà chỉ là chưa nhận biết được mà thôi.
Dựa vào những nguyên tắc cơ bản trên đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, nhận thức, dựa trên cơ sở thực tiễn- là quá trình phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo hiện thực khách quan vào não người.

 2. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

Nếu Cantơ (1724-1804, Đức) coi ba yếu tố nhận thức (tôi có thể biết gì?), đạo đức (tôi cần phải làm gì?) và cái đẹp (tôi có thể hy vọng vào cái gì?) là cầu nối giữa tư duy con người với thế giới xung quanh, thì triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng thực tiễn là cầu nối đó và đó cũng là cách nhận thức về vai trò của thực tiễn với tư cách là điểm xuất phát của quan niệm duy vật về lịch sử và cũng là điểm xuất phát của lý luận nhận thức duy vật biện chứng.

 Thực tiễn là gì? Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Là hoạt động đặc trưng của bản chất con người, thực tiễn không ngừng phát triển bởi các thế hệ của loài người qua các quá trình lịch sử. Như vậy, thực tiễn có ba đặc trưng là hoạt động vật chất cảm tính, lịch sử-tự nhiên và tính mục đích.

 Các hình thức của thực tiễn. Thực tiễn bao gồm những hình thức hoạt động khác nhau của xã hội như

 1) Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn. Lao động là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con người; là hoạt động đã đưa con người từ trạng thái thú vật lên trạng thái con người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung

 2) Hoạt động cải tạo xã hội (chính trị-xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo hiện thực xã hội, cải biến những quan hệ xã hội nên có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng xã hội

 3) Hoạt động thực nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực nghiệm bao gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội được tiến hành trong điều kiện nhân tạo nhằm rút ngắn thời gian của các quá trình biến đổi để dựa trên cơ sở đó nhận thức thế giới, chứng minh tính chân thực của nhận thức. Những hình thức này của thực nghiệm cũng làm biến đổi giới tự nhiên và xã hội

 4) Các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, nghệ thuật, pháp luật, đạo đức v.v được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của xã hội do đời sống xã hội ngày càng phát triển, ngày càng thêm đa dạng. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất quy định các hình thức còn lại của thực tiễn và đến lượt mình, các hình thức đó tác động ngược trở lại hoạt động sản xuất vật chất.

 b. Nhận thức và các trình độ nhận thức

– Định nghĩa. Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào não người trên cơ sở thực tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó; tính đúng, sai của những tri thức đó được thước đo thực tiễn xác định.

 Các cấp độ của nhận thức

1) Dựa vào khả năng phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia nhận thức thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; chúng là hai mức nhận thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức và trình tự phản ánh

 a) Nhận thức kinh nghiệm được hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, trong các thí nghiệm khoa học và trong các hình thức hoạt động thực tiễn không cơ bản khác. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Có hai loại tri thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thường- là những tri thức thu nhận được nhờ sự quan sát trực tiếp hàng ngày và trong lao động sản xuất; tri thức kinh nghiệm khoa học- là những tri thức thu được nhờ đúc kết những thí nghiệm khoa học. Cả hai loại tri thức này có quan hệ mật thiết, xâm nhập lẫn nhau tạo ra tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm

 b) Nhận thức lý luận (còn gọi là lý luận) là nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết nhận thức kinh nghiệm. Cái khác của nhận thức lý luận so với nhận thức kinh nghiệm nằm ở chỗ, nhận thức lý luận có chức năng phản ánh gián tiếp, có tính khái quát và trừu tượng cao. Nhận thức lý luận chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Do vậy, tri thức lý luận (kết quả của nhận thức lý luận) là sự thể hiện chân lý sâu sác, chính xác và có hệ thống hơn nhận thức kinh nghiệm

 c) Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.

 Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu cụ thể nhưng phong phú. Nhận thức kinh nghiệm là dạng nhận thức còn bị hạn chế ở sự miêu tả, phân loại các sự kiện, dữ kiện đã thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do vậy, nhận thức kinh nghiệm “tự nó không bao giờ chứng minh được tính tất yếu”. Nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát từ nhận thức kinh nghiệm. Tính độc lập tương đối của nhận thức lý luận nằm ở chỗ, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự chọn lọc những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, thông qua đó những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất được nâng lên thành những tri thức khái quát, phổ biến. Nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức và mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm với nhận thức lý luận giúp khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Nếu tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức kinh nghiệm “mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”[1]. Nếu tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý luận, dễ dẫn đến bệnh giáo điều

 2) Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Căn cứ vào tính tự phát hay tự giác của sự phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia nhận thức thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học

 a) Nhận thức thông thường (có tính tự phát) là nhận thức hình thành tự phát, trực tiếp từ hoạt động hàng ngày của con người. Loại nhận thức này phản ánh sự vật, hiện tượng xẩy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội

 b) Nhận thức khoa học (có tính tự giác) là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phanr ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Đây là sự phản ánh diễn ra dưới dạng trừu tượng, khái quát vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Sự phản ánh đó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu

 c) Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai nấc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là cơ sở để xây dựng nội dung của các lý thuyết khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả năng tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.

 c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

– Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.

 – Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.

 – Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức. Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.

 – Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Trong thực tiễn con người chứng minh chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị (chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển và hoàn thiện nhận thức.

 Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn (thước đo) nhận thức; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.

 3. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý

a. Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của nhận thức chân lý. “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”[2]. Như vậy, nhận thức là sự phản ánh thế giới được thực hiện trên cơ sở thực tiễn và con đường biện chứng của nhận thức gồm hai giai đoạn kế tiếp, bổ sung cho nhau.

 – Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với thực tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Những thành phần của nhận thức cảm tính

1) Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các giác quan của con người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác là thế giới khách quan, còn bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan về thế giới đó

 2) Tri giác là sự tổng hợp (phối hợp, bổ sung lẫn nhau) của nhiều cảm giác riêng biệt vào một mối liên hệ thống nhất tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng

 3) Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của não người. Đây là nấc thang cao và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính; là hình ảnh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng được lưu lại trong não người và do tác động nào đó được tái hiện lại khi sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm tính. Trong biểu tượng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và với biểu tượng, con người đã có thể hình dung được sự khác nhau và mâu thuẫn nhưng chưa nắm được sự chuyển hoá từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.

 Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là nhận thức “bề ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà đã có “chất”. Tuy vậy, giai đoạn trực quan sinh động chưa đưa lại nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự vật, hiện tượng; các nấc thang khác nhau của giai đoạn này trong quá trình nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất sự vật, hiện tượng.

 – Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ lý luận do thế hệ trước truyền lại. Nhận thức lý tính phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận thức; khái niệm, phán đoán và suy luận (suy lý) là những hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng.

 Những thành phần của nhận thức lý tính

+ Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan khi phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất và chung nhất của sự vật, hiện tượng nhờ sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. Các thông tin, tài liệu đó càng nhiều, càng đa dạng thì các khái niệm cũng ngày một nhiều và giữa chúng có các mối liên hệ qua lại với nhau trong sự vận động, phát triển không ngừng dẫn đến sự hình thành những khái niệm mới, phản ánh sâu sắc hơn về bản chất của sự vật, hiện tượng

 + Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức con người tạo nên vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan. Có ba loại phán đoán cơ bản là phán đoán đơn nhất; phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến, trong đó phán đoán phổ biến là hình thức diễn đạt tương đối đầy đủ các quy luật

 + Suy luận (suy lý) là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề (suy luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán đoán mới). Suy luận có vai trò quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi nó thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết. Có thể nói rằng, đa số các ngành khoa học được xây dựng trên hệ thống suy luận và nhờ đó, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan. Tuỳ thuộc vào tính chất của mối liên hệ giữa các phán đoán tiên đề với phán đoán kết luận mà suy luận có thể là suy luận quy nạp hoặc suy luận diễn dịch. Trong các suy luận quy nạp, tư duy vận động từ cái đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến; trong các suy luận diễn dịch tư duy đi từ cái chung đến cái ít chung hơn và đến cái đơn nhất. Cũng như khái niệm và phán đoán, các loại suy luận đều biến đổi, có liên hệ qua lại với nhau theo tiến trình phát triển của nhận thức.

 Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương pháp trừu tượng hoá và khái quát hoá các thông tin, tài liệu do trực quan sinh động và tư duy trừu tượng do các thế hệ trước để lại, tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn; phản ánh được những thuộc tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Sự phân chia quá trình nhận thức như trên chỉ là sự trừu tượng quá trình vận động của nhận thức; còn trên thực tế, nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và các nấc thang của chúng luôn đan xen nhau và thực tiễn là cơ sở của toàn bộ quá trình nhận thức đó.

 – Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức

+ Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy có những sự khác nhau về mức độ phản ánh hiện thực khách quan, nhưng giữa hai quá trình đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trực quan sinh động là cơ sở tất yếu của tư duy trừu tượng, trên thực tế, nhận thức lý tính không thể thực hiện nếu thiếu tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại và ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính xác hơn

 + Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận thức thế giới khách quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động và tư duy trừu tượng được thực hiện trên cơ sở thực tiễn, do thực tiễn quy định. Trong đó, trực quan sinh động là điểm khởi đầu, tư duy trừu tượng tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành các kết quả của nhận thức và thực tiễn là nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các kết quả đó của nhận thức. Đó chính là con đường biện chứng của nhận thức

 + Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức ở giai đoạn cảm tính gắn liền với thực tiễn, gắn liền với sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức lên các giác quan của chủ thể nhận thức. Nhận thức ở giai đoạn lý tính đã thoát khỏi sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức để có thể bao quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận thức ở giai đoạn này nhất thiết phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh nhằm tránh nguy cơ ảo tưởng, viển vông, không thực tế. Đó là thực chất của mệnh đề “từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”

 + Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi đến tư duy trừu tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình nhận thức mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho nhận thức của con người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động biến đổi thế giới

 + Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức được giải quyết thì lại xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi lần giải quyết mâu thuẫn của nhận thức là một lần nhận thức được nâng lên trình độ mới, chính xác hơn. Quá trình giải quyết mâu thuẫn của nhận thức cũng là quá trình loại bỏ dần những nhận thức sai đã phạm phải. Kết quả của quá trình đó là hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính bản chất, có nội dung khách quan hơn và cụ thể hơn. Trong quá trình đó không ngừng nảy sinh, vận động và giải quyết các mâu thuẫn của nhận thức để tạo ra các khái niệm, phạm trù, quy luật nhằm phản ánh đúng bản chất của thế giới vật chất đang vận động, chuyển hoá và phát triển không ngừng.

 b. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn

– Khái niệm chân lý. Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Quan niệm như vậy về chân lý khẳng định, chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế giới được hình thành và phát triển dần từng bước; phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể trong thực tiễn; vào nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.

 Các tính chất của chân lý. Chân lý vừa có tính tương đối, vừa có tính tuyệt đối; vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan, thể hiện tính biện chứng của chân lý.

 1) Tính khách quan bởi nội dung mà nó phản ánh là có tính khách quan, phù hợp với khách thể nhận thức. Bản chất về tính khách quan của chân lý là thừa nhận nguồn gốc khách quan của cảm giác, của tri thức của con người về thế giới. Khi thừa nhận chân lý khách quan, lý luận nhận thức của triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời cũng cho rằng phải trải qua một quá trình thì nhận thức mới đạt đến chân lý bởi chân lý luôn vận động và phát triển.

 2) Trong chân lý khách quan, các yếu tố tuyệt đối và tương đối liên hệ biện chứng với nhau. Chân lý tương đối bao giờ cũng bao hàm một hay nhiều yếu tố của chân lý tuyệt đối. Chính vì vậy, các chân lý tương đối là các bậc thang trong quá trình nhận thức của con người đi tới chân lý tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối chỉ có thể hình thành và tồn tại thông qua chân lý tương đối. Đây là mối quan hệ giữa chân lý tương đối với chân lý tuyệt đối.

 3) Tính cụ thể. Tính cụ thể của chân lý là do tính cụ thể của khách thể nhận thức quy định. Sự vật, hiện tượng bao giờ cũng tồn tại khách quan trong tính cụ thể của nó. Nhận thức của con người là sự phản ánh các sự vật, hiện tượng trong những điều kiện tồn tại, trong những quan hệ cụ thể của chúng. Thoát ly khỏi những điều kiện khách quan-cụ thể đó hoặc mở rộng khỏi phạm vi tồn tại và thoát ly khỏi những quan hệ xác định đó thì chân lý sẽ không còn là chân lý khách quan. Luận điểm triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng chân lý là cụ thể, không có chân lý trừu tượng là một trong những cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử-cụ thể- một trong những phương pháp biện chứng duy vật để nhận thức và cải tạo thế giới.

 – Phân loại chân lý

+ Chân lý tương đối là tri thức đúng của con người (chủ thể nhận thức) nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ với nội dung của sự vật, hiện tượng (khách thể nhận thức). Sự phù hợp giữa nội dung nhận thức với tri thức của chân lý tương đối chỉ là sự phù hợp từng bộ phận, từng phần, một số mặt, một số khía cạnh nào đó của khách thể nhận thức. Tính tương đối của chân lý nảy sinh trên con đường nhận thức là do giới hạn của hoàn cảnh và điều kiện lịch sử; của trình độ phát triển thực tiễn xã hội lên nhận thức của con người trong khi các khách thể nhận thức lại hết sức đa dạng và không ngừng vận động, phát triển nên luôn bộc lộ những thuộc tính và quan hệ mới mà nhận thức con người chưa theo kịp, chưa nhận biết. Cùng với sự phát triển của thực tiễn là sự phát triển của nhận thức khoa học không ngừng phát hiện ra những thiếu sót, sai lầm mà nhận thức của con người đã phạm phải để phát triển chân lý tương đối theo hướng tiếp cận chân lý tuyệt đối. Chân lý tương đối chứa trong mình những yếu tố của chân lý tuyệt đối cũng phát triển và ngày càng trở nên chính xác hơn, đầy đủ hơn để trở thành chân lý tuyệt đối

 + Chân lý tuyệt đối là tri thức của chủ thể nhận thức có nội dung phù hợp hoàn toàn, đầy đủ với khách thể nhận thức mà nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Một vấn đề đặt ra là liệu nhận thức của con người có hoàn toàn phù hợp, đầy đủ với khách thể nhận thức hay không? Câu trả lời là có thể, bởi vì nếu thừa nhận tính khách quan của chân lý, có nghĩa là thừa nhận chân lý tuyệt đối. Con người nhận thức được thế giới và nội dung của nhận thức đó có tính khách quan nên xét về bản chất, xét trong kết quả và xét trong quá trình phát triển lâu dài của mình, nhận thức của con người- thông qua các thế hệ người kế tiếp nhau trong lịch sử- về nguyên tắc là có thể phản ánh đầy đủ, chính xác bản chất của sự vật, hiện tượng trong tính chỉnh thể và nguyên vẹn của nó.

 – Mối quan hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối

+ Sự khác nhau giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không thuộc về bản chất mà chỉ ở mức độ phù hợp giữa nội dung của chúng đối với khách thể nhận thức được chúng phản ánh. Mức độ sự khác biệt đó tồn tại nhưng không ngừng bị xoá bỏ và lại được xác lập; nó vận động theo sự phát triển của nhận thức khoa học. Tuy vậy, cả chân lý tương đối lẫn chân lý tuyệt đối đều là những hình thức biểu hiện khác nhau của chân lý khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận tính tương đối của tri thức theo nghĩa thừa nhận những giới hạn của nhận thức, nhưng điều này không phải là phủ nhận chân lý khách quan, phủ nhận tính chân thực khách quan của các tri thức đã đạt được

 + Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển, chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập đối với nhân loại, những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối.

 – Vai trò của chân lý đối với thực tiễn.

 1) Chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và hiệu quả khi vận dụng tri thức về hiện thực

 2) Chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng chân lý.

 Từ mối quan hệ biện chứng giữa chân lý với thực tiễn

 1) cần xuất phát từ thực tiễn để đạt tới chân lý, coi chân lý là một quá trình; đông thời tự giác vận dụng chân lý vào thực tiễn để nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển thực tiễn

 2) coi trọng và áp dụng tri thức khoa học vào hoạt động kinh tế-xã hội và thực chất, đó cũng chính là phát huy vai trò chân lý khoa học trong thực tiễn.

 Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý

 Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I. Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.

  

  

  

 tag: phép thân powerpoint tuân bài giảng ví dụ tóm tắt lí