Đạo đức và pháp luật đều là hệ thống chuẩn mực điều chỉnh hành vi con người nhằm bảo vệ trật tự phát triển xã hội. Đạo đức dựa trên nhận thức xã hội, niềm tin, truyền thống từ đó điều chỉnh hành vi qua cảm giác tự giác với dư luận. Pháp luật do Nhà nước lập ra có tính cưỡng chế bắt buộc thực hiện theo cách thức chính thức.
Hai khía cạnh này có quan hệ hữu cơ bổ sung cho nhau. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa. Đạo đức có thể đi trước thúc đẩy nhà nước hoàn thiện pháp luật. Ngược lại pháp luật giúp khẳng định bảo vệ giá trị đạo đức trong xã hội. Khi kết hợp hiệu quả, hành vi sẽ được điều chỉnh cả trong chiều tự nguyện cưỡng chế.
Khi quy phạm pháp luật mới hình thành, chất chứa giá trị đạo đức. Ví dụ li hôn phải đảm bảo sự tôn trọng nhân phẩm dù xây dựng trên quyền cá nhân. Ngược lại hành vi chỉ vi phạm đạo đức thôi nhưng chưa vi phạm luật thì không bị xử phạt nhưng dần được truyền thông cảnh báo đến khi luật hóa.
Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật Tôn trọng nguyên tắc quản lý qua luật
Pháp luật không tồn tại độc lập mà chỉ phát sinh trong xã hội có nhà nước. Nhà nước dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội thay vì hành chính tùy tiện. Điều này thể hiện qua nguyên tắc pháp chế, nghĩa là Nhà nước với mọi cá nhân phải hoạt động theo luật, không được hành xử ngoài luật.
Nguyên tắc này được Hiến pháp khẳng định là Nhà nước tổ chức và hành động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật. Khi nguyên tắc này được tôn trọng, sự can thiệp của Nhà nước được giới hạn trong khung pháp luật, quyền con người được bảo vệ với các quyền lực cũng được kiểm soát qua luật pháp. Đây là nền tảng để xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện đại.
Mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế Nhìn từ khái niệm đến chức năng
Pháp luật là tập hợp các quy phạm xử sự có tính cưỡng chế. Pháp chế là chế độ trong đó xã hội và mọi hoạt động của Nhà nước được điều hành kiểm soát bằng pháp luật.
Tức là pháp chế là trạng thái chung của xã hội vận hành theo luật, còn pháp luật là công cụ của trạng thái đó. Nếu chỉ có pháp luật mà không có pháp chế thì sẽ dẫn đến áp dụng luật tùy tiện, quyền lực không bị kiểm soát. Khi xã hội theo pháp chế, mọi hoạt động đều phải dựa trên luật có thể chịu trách nhiệm nếu vi phạm.
Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị Định hướng qua hệ giá trị và quyền lực
Pháp luật gắn bó mật thiết với chính trị khi các nhà lập pháp đưa tư tưởng chính trị thành luật để định hướng xã hội theo mục tiêu chung. Luật phản ánh giá trị, định hướng xã hội mà chính trị đề ra.
Ví dụ Luật giáo dục, Luật lao động, Luật hôn nhân đều phản ánh hệ tư tưởng về quyền con người, bình đẳng, phát triển tiến bộ. Mặt khác khi chính trị không chịu ràng buộc luật pháp thì dẫn đến thể chế độc đoán. Ngược lại khi pháp luật độc lập, công bằng và dân chủ, chính trị được điều tiết theo quy định.
Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái Kết nối trên cơ sở sinh đẻ nuôi dưỡng
Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái phát sinh từ sự kiện sinh đẻ bằng sinh học hoặc thụ tinh nhân tạo. Sự kiện này tạo ra chủ thể của cả cha mẹ và con, hình thành quyền nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
Cha mẹ có quyền nghĩa vụ nuôi dạy con cái bao gồm yêu thương, lo lắng, bảo vệ, trả tiền học, chăm sóc y tế. Con có quyền được yêu thương, được quan tâm, được bảo đảm học hành, phát triển đầy đủ có nghĩa vụ vâng lời khi còn nhỏ chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ già yếu.
Quan hệ này được pháp luật xác nhận qua giấy khai sinh, giấy chứng nhận nuôi con hay quyết định của tòa án trong trường hợp tranh chấp về quyền nuôi con.
Quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng Bình đẳng trong hôn nhân
Khi kết hôn hợp pháp, giữa vợ và chồng hình thành quan hệ pháp luật đặc biệt bao gồm
-
Quyền nghĩa vụ nhân thân như tôn trọng lẫn nhau, chung thủy, hỗ trợ, xây dựng gia đình, tôn trọng quyền cá nhân về nơi cư trú, tôn giáo, tín ngưỡng, nghề nghiệp.
-
Quyền nghĩa vụ tài sản như quyền sở hữu chung và riêng, quyền thừa kế, quyền cấp dưỡng lẫn nhau khi một trong hai không đủ điều kiện lao động. Tài sản chung được quản lý bình đẳng dựa trên thỏa thuận hoặc luật định.
Gia đình được pháp luật bảo vệ trên nguyên tắc bình đẳng giữa các bên, ưu tiên bảo vệ người yếu thế như phụ nữ với trẻ em. Quan hệ này kéo dài từ khi kết hôn đến khi ly hôn chấm dứt thông qua thủ tục hợp pháp.
Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, giữa nhà nước và pháp luật, giữa pháp luật và pháp chế, pháp luật với chính trị đóng vai trò quyết định đến cấu trúc xã hội cùng cách chúng ta vận hành pháp luật.
Trong đó các quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng thể hiện tính cụ thể, nhân văn với ứng dụng cao trong đời sống. Việc hiểu đúng với vận dụng những mối quan hệ này sẽ giúp bảo vệ quyền lợi thiết yếu đảm bảo trật tự và xây dựng xã hội công bằng, văn minh.