Nguồn gốc của pháp luật sự hình thành của nhà nước trong tiến trình lịch sử nhân loại

Pháp luật với nhà nước là hai khái niệm nền tảng trong đời sống chính trị pháp lý của mọi xã hội có tổ chức. Từ hàng ngàn năm trước khi xã hội loài người bước vào giai đoạn văn minh những quy tắc xử sự đầu tiên đã hình thành để duy trì trật tự. Trải qua quá trình phát triển lâu dài pháp luật dần được xác lập thành hệ thống quy phạm do nhà nước ban hành bảo đảm thực thi bằng quyền lực công. Việc tìm hiểu nguồn gốc của pháp luật không chỉ giúp làm rõ bản chất của công cụ quản lý xã hội này còn lý giải mối liên hệ mật thiết giữa sự ra đời của nhà nước với sự hình thành pháp luật.

Pháp luật xuất hiện từ khi nào

Khi con người còn sống trong xã hội nguyên thủy chưa có nhà nước các quy tắc ứng xử chủ yếu tồn tại dưới dạng tập quán tín ngưỡng và luật lệ truyền miệng. Các quy phạm này do cộng đồng cùng tạo ra được thực hiện một cách tự nguyện và mang tính thống nhất tương đối. Khi xã hội phân hóa thành các giai cấp đối kháng sự cần thiết của một công cụ quyền lực mới xuất hiện để duy trì trật tự bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị. Đó chính là lúc nhà nước và pháp luật ra đời như hai mặt song hành trong cơ chế tổ chức xã hội mới.

Pháp luật không xuất hiện một cách tự phát mà là sản phẩm của sự phát triển xã hội đến một trình độ nhất định. Nó phản ánh sự cần thiết phải điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng phức tạp bằng những quy định có tính cưỡng chế bắt buộc chung. Sự ra đời của pháp luật đánh dấu bước ngoặt trong cách thức tổ chức và vận hành xã hội chuyển từ chế độ cộng đồng nguyên thủy sang hình thức tổ chức nhà nước có quyền lực tối cao.

việt   nam

Các học thuyết về nguồn gốc pháp luật

Trong lịch sử tư tưởng chính trị pháp lý có nhiều học thuyết lý giải nguồn gốc của pháp luật. Một số trường phái tiêu biểu có thể kể đến như

Thứ nhất là học thuyết thần quyền cho rằng pháp luật là ý chí của thần linh hoặc thượng đế ban cho con người. Theo quan điểm này con người không được phép thay đổi pháp luật vì đó là điều thiêng liêng bất biến. Học thuyết này từng phổ biến ở các quốc gia có nền văn hóa tôn giáo mạnh như Ai Cập Babylon hoặc các quốc gia đạo Hồi cổ đại.

Thứ hai là học thuyết khế ước xã hội với đại diện tiêu biểu như Thomas Hobbes John Locke Jean Jacques Rousseau. Họ cho rằng pháp luật là kết quả của sự thỏa thuận giữa các cá nhân trong xã hội nhằm từ bỏ một phần tự do tự nhiên để được bảo vệ an toàn và ổn định. Nhà nước theo đó là thiết chế được trao quyền lực để thực hiện hợp đồng xã hội bảo đảm pháp luật được thi hành.

Thứ ba là học thuyết Marxist giải thích sự ra đời của pháp luật gắn liền với sự xuất hiện của nhà nước khi xã hội phân chia giai cấp. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được nhà nước thể chế hóa thành quy phạm bắt buộc nhằm duy trì quyền lực và trật tự xã hội.

Mỗi học thuyết có cách tiếp cận riêng nhưng đều thống nhất ở điểm chung pháp luật không phải do một cá nhân tạo ra mà là sản phẩm khách quan của tiến trình phát triển xã hội.

Điều kiện ra đời của pháp luật

Pháp luật chỉ xuất hiện khi có đủ ba điều kiện cơ bản sau

Thứ nhất là xã hội đã phát triển đến trình độ có phân chia giai cấp. Đây là tiền đề quan trọng để hình thành nhu cầu về một công cụ điều chỉnh các mối quan hệ đối kháng đảm bảo lợi ích cho một nhóm người cầm quyền.

Thứ hai là sự ra đời của nhà nước với bộ máy quyền lực có tổ chức. Nhà nước là chủ thể duy nhất có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực thi pháp luật bằng các biện pháp cưỡng chế hợp pháp.

Thứ ba là sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội đến mức độ cần thiết phải có quy tắc chung để điều chỉnh hành vi tạo sự ổn định và nhất quán trong các giao dịch giữa các cá nhân tổ chức.

Không có một yếu tố nào trong ba điều kiện trên tồn tại độc lập mà chúng liên kết chặt chẽ thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình chuyển hóa xã hội từ tự nhiên sang có tổ chức.

Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật

Nhà nước và pháp luật là hai thiết chế xã hội có mối quan hệ mật thiết và tương hỗ. Nhà nước cần pháp luật để thể hiện và thực hiện quyền lực còn pháp luật cần nhà nước để ban hành tổ chức thực hiện và bảo đảm hiệu lực.

Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền lập pháp thể hiện qua việc ban hành hiến pháp luật và các văn bản dưới luật. Đồng thời nhà nước cũng tổ chức bộ máy hành pháp và tư pháp để quản lý và xét xử các hành vi vi phạm pháp luật.

Ngược lại pháp luật là công cụ để nhà nước điều chỉnh hành vi của công dân bảo vệ trật tự an ninh quyền con người và các chuẩn mực xã hội. Trong một nhà nước pháp quyền mọi hoạt động của nhà nước đều phải tuân theo pháp luật và chịu sự kiểm soát pháp lý.

Chính vì vậy khi nghiên cứu nguồn gốc của pháp luật không thể tách rời khỏi sự hình thành và phát triển của nhà nước.

Vai trò của pháp luật trong xã hội hiện đại

Ngày nay pháp luật không còn là công cụ phục vụ riêng cho giai cấp cầm quyền mà đã trở thành thiết chế bảo vệ lợi ích chung điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách công bằng và minh bạch.

Pháp luật đóng vai trò định hướng phát triển kinh tế xã hội điều tiết thị trường giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền tự do của cá nhân. Trong môi trường toàn cầu hóa pháp luật còn là công cụ quan trọng để hội nhập quốc tế đảm bảo các cam kết và tiêu chuẩn chung được thực hiện.

Một nhà nước hiện đại cần có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ minh bạch và dễ tiếp cận. Chỉ khi đó nhà nước mới thực sự là nhà nước của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân.

Nguồn gốc của pháp luật là kết quả của sự phát triển lâu dài của xã hội loài người phản ánh nhu cầu tổ chức lại trật tự xã hội khi xuất hiện phân hóa giai cấp với quyền lực công cộng. Pháp luật và nhà nước ra đời gần như đồng thời gắn bó chặt chẽ tạo nên nền tảng điều chỉnh xã hội hiện đại. Việc hiểu rõ nguồn gốc pháp luật giúp mỗi cá nhân nâng cao ý thức pháp lý từ đó góp phần xây dựng một xã hội công bằng văn minh phát triển bền vững.