Trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc gia nào việc phân chia pháp luật thành các nhóm hay nhánh là cần thiết để dễ quản lý với áp dụng. Một trong những cách phân loại phổ biến nhất là chia thành hai nhóm lớn là luật công và luật tư. Tuy cách phân chia này mang tính tương đối nhưng vẫn có ý nghĩa quan trọng về mặt lý thuyết pháp lý và thực tiễn pháp luật. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn hiểu rõ khái niệm luật công là gì, luật tư là gì cũng như sự khác biệt cơ bản giữa hai lĩnh vực này.
Luật công là gì
Luật công là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội. Đặc điểm nổi bật của các quan hệ trong luật công là sự tham gia của nhà nước với tư cách là một bên có quyền lực công. Điều này có nghĩa rằng, trong các quan hệ thuộc phạm vi luật công, nhà nước không đứng ở vị trí ngang bằng với các bên còn lại mà là chủ thể nắm quyền lực đưa ra mệnh lệnh và kiểm soát việc thực hiện pháp luật.
Luật công thường điều chỉnh các quan hệ liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, việc thực hiện quyền lực nhà nước và các quy tắc bắt buộc áp dụng đối với công dân, tổ chức. Các lĩnh vực cơ bản của luật công bao gồm luật hiến pháp, luật hình sự, luật hành chính, luật tài chính, luật quốc tế công và các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ lợi ích công cộng.
Một đặc điểm khác của luật công là các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này thường dẫn đến các chế tài nghiêm khắc do tính chất liên quan đến lợi ích chung và trật tự xã hội. Ví dụ hành vi tham nhũng trốn thuế làm giả giấy tờ hành chính đều là các hành vi vi phạm luật công và bị xử lý theo các quy định mang tính cưỡng chế mạnh mẽ.

Luật tư là gì
Trái ngược với luật công, luật tư điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính chất bình đẳng, hợp tác và tự nguyện giữa các cá nhân hay tổ chức trong xã hội. Trong các quan hệ thuộc phạm vi luật tư, các bên đều là chủ thể độc lập có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, tự do thỏa thuận theo ý chí của mình trên cơ sở pháp luật cho phép.
Luật tư bao gồm các lĩnh vực như luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật lao động, luật thương mại và luật quốc tế tư nhân. Những lĩnh vực này điều chỉnh các hoạt động dân sự như mua bán vay mượn thuê mướn rồi kết hôn hay ly hôn cả giao dịch hợp đồng hay bồi thường thiệt hại hay thừa kế…
Một đặc trưng cơ bản của luật tư là nguyên tắc tự do thỏa thuận. Các bên có quyền tự do quyết định các điều khoản giao dịch miễn là không trái với pháp luật, đạo đức xã hội và không xâm phạm đến quyền, lợi ích của bên thứ ba. Nhà nước trong các quan hệ luật tư thường không can thiệp trực tiếp mà chỉ đóng vai trò thiết lập khuôn khổ pháp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Sự khác biệt cơ bản giữa luật công và luật tư
Mặc dù cùng nằm trong hệ thống pháp luật, luật công và luật tư có nhiều điểm khác biệt rõ ràng về chủ thể tham gia, tính chất quan hệ, cách điều chỉnh và vai trò của nhà nước. Dưới đây là một số tiêu chí cơ bản để phân biệt:
Thứ nhất, về chủ thể tham gia. Trong luật công một bên thường là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong khi đó luật tư chủ yếu điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân hay tổ chức ở vị trí ngang bằng về pháp lý.
Thứ hai, về tính chất quan hệ. Luật công thể hiện mối quan hệ quyền lực – phục tùng. Nhà nước nắm quyền lực công và có thể áp đặt ý chí của mình thông qua các quyết định hành chính hoặc quy định pháp luật. Trái lại, luật tư điều chỉnh mối quan hệ bình đẳng, các bên tự do thỏa thuận và không bị áp đặt bởi mệnh lệnh hành chính.
Thứ ba, về phương pháp điều chỉnh. Luật công sử dụng phương pháp mệnh lệnh đơn phương đặt ra các quy định bắt buộc tuân thủ. Luật tư sử dụng phương pháp thỏa thuận, nơi các bên tự do lựa chọn cách thức thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong khuôn khổ pháp luật.
Thứ tư, về mục đích điều chỉnh. Luật công hướng tới bảo vệ lợi ích công cộng, đảm bảo trật tự xã hội, an ninh quốc gia và quyền lực nhà nước. Luật tư chủ yếu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cá nhân, bảo đảm sự công bằng và ổn định trong các quan hệ dân sự và kinh tế.
Luật công và luật tư trong thực tiễn pháp lý
Trong thực tế, việc phân biệt luật công và luật tư không luôn luôn rạch ròi. Có nhiều quan hệ pháp lý mang tính chất hỗn hợp, vừa có yếu tố công vừa có yếu tố tư. Ví dụ trong hoạt động đấu thầu giữa doanh nghiệp tư nhân và cơ quan nhà nước, quan hệ mang tính thương mại nhưng vẫn bị điều chỉnh bởi các quy định hành chính về minh bạch và cạnh tranh.
Ngoài ra, nhiều quốc gia hiện nay theo xu hướng tiếp cận pháp luật hiện đại không còn phân biệt quá cứng nhắc giữa luật công và luật tư. Thay vào đó họ áp dụng các nguyên tắc pháp lý chung để xử lý từng vụ việc cụ thể nhằm đảm bảo hiệu quả và công bằng trong giải quyết tranh chấp.
Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật vẫn còn chịu ảnh hưởng của cách tiếp cận phân biệt luật công – luật tư trong giáo dục pháp lý và lập pháp. Tuy nhiên, trong xét xử và áp dụng pháp luật thực tế, nhiều trường hợp phải vận dụng linh hoạt cả hai nhóm quy phạm để giải quyết vấn đề một cách toàn diện.
Việc hiểu rõ luật công và luật tư là cơ sở để cá nhân hay tổ chức hành xử đúng đắn trong các quan hệ pháp lý. Luật công giúp duy trì trật tự, kỷ cương trong hoạt động của nhà nước và xã hội. Luật tư tạo điều kiện cho các giao dịch dân sự kinh doanh diễn ra một cách tự do công bằng.
Dù phân biệt hai khái niệm này mang tính học thuật nhưng trong thực tiễn cuộc sống, mỗi người đều đang tham gia vào cả hai loại quan hệ pháp lý. Khi đi xin cấp giấy tờ thực hiện nghĩa vụ thuế đó là luật công. Khi ký hợp đồng thuê nhà mua bán tài sản đó là luật tư. Do đó hiểu rõ hai lĩnh vực này không chỉ cần thiết cho giới luật gia còn thiết thực đối với mọi công dân.
