Pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng logistics đã trở thành một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi cùng tiềm năng phát triển kinh tế mạnh mẽ đang từng bước khẳng định vai trò là trung tâm logistics của khu vực Đông Nam Á tuy nhiên để ngành logistics phát triển bền vững hiệu quả hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này cần được hoàn thiện rõ ràng phù hợp với thực tiễn. Bài viết dưới đây sẽ phân tích tổng quan về khung pháp lý điều chỉnh dịch vụ logistics tại Việt Nam hiện nay những thuận lợi hay bất cập với kiến nghị hoàn thiện.

Khái niệm dịch vụ logistics trong pháp luật

Dịch vụ logistics được hiểu là hoạt động thương mại mà trong đó thương nhân thực hiện một hoặc nhiều công đoạn như nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, đóng gói cả làm thủ tục hải quan hay như tư vấn khách hàng với giao hàng cùng các dịch vụ liên quan khác nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng được quy định tại luật thương mại là cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh các hành vi liên quan đến logistics.

Tuy nhiên khái niệm logistics trong thực tiễn còn rộng hơn nhiều so với cách hiểu trong luật thương mại. Trong thực tế logistics không chỉ là dịch vụ hỗ trợ mà còn là ngành công nghiệp quan trọng với nhiều hoạt động chuyên biệt phức tạp. Do đó cần có cách tiếp cận linh hoạt hơn trong việc xây dựng khung pháp lý phù hợp với thực tiễn vận hành của ngành.

Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành

Hiện nay dịch vụ logistics tại Việt Nam được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật như luật thương mại, luật đầu tư, luật giao thông, luật hải quan và các nghị định hướng dẫn. Trong đó nghị định số 163 năm 2017 được coi là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên quy định chi tiết về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics với phân loại dịch vụ cùng quyền nghĩa vụ của thương nhân. Bên cạnh đó còn có nghị định số 87 năm 2009 về vận tải đa phương thức và nhiều thông tư chuyên ngành của các bộ ngành như giao thông vận tải, công thương, tài chính.

Hệ thống pháp luật này tuy đa dạng nhưng còn phân tán thiếu sự thống nhất đồng bộ. Việc có quá nhiều văn bản khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xác định rõ quyền nghĩa vụ với trách nhiệm khi hoạt động trong lĩnh vực logistics.

Phân loại dịch vụ logistics

Theo quy định hiện hành dịch vụ logistics được chia thành ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất gồm các dịch vụ liên quan trực tiếp đến vận tải như vận tải hàng hóa, đại lý vận tải, đại lý làm thủ tục hải quan. Nhóm thứ hai bao gồm các dịch vụ hỗ trợ như lưu kho, kho bãi, phân phối, xử lý hàng hóa. Nhóm thứ ba gồm các dịch vụ khác có liên quan như kiểm định phân tích kỹ thuật tư vấn đào tạo logistics.

Việc phân loại rõ ràng giúp cơ quan quản lý dễ dàng kiểm soát cấp phép phù hợp cho từng loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế ranh giới giữa các nhóm dịch vụ này đôi khi rất mờ nhạt dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng đúng quy định pháp luật. Một doanh nghiệp có thể hoạt động đa dịch vụ nhưng chỉ được cấp phép trong một số phạm vi hẹp ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cùng hiệu quả kinh doanh.

Điều kiện kinh doanh và quyền của thương nhân

Thương nhân khi muốn cung cấp dịch vụ logistics phải đáp ứng một số điều kiện nhất định tùy theo loại hình dịch vụ mà họ cung cấp. Ví dụ đối với dịch vụ vận tải hàng hóa quốc tế, doanh nghiệp phải có giấy phép phù hợp có phương tiện vận tải hợp chuẩn có nhân lực đủ trình độ chuyên môn. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỷ lệ sở hữu và phạm vi hoạt động cũng bị giới hạn theo cam kết gia nhập WTO.

Về quyền lợi thương nhân pháp luật hiện hành trao cho họ quyền yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin chính xác về hàng hóa, quyền từ chối vận chuyển nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật đồng thời được miễn trừ trách nhiệm trong một số trường hợp bất khả kháng hay do lỗi khách hàng tuy nhiên quy định về trách nhiệm với giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp logistics vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng đặc biệt là khi xảy ra tranh chấp.

Những bất cập trong thực tiễn áp dụng

Dù đã có khung pháp lý cơ bản nhưng việc áp dụng pháp luật về logistics ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Thứ nhất là sự thiếu thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật khiến doanh nghiệp khó xác định đúng nghĩa vụ và quyền lợi. Thứ hai là thủ tục hành chính còn rườm rà chồng chéo gây tốn kém thời gian và chi phí. Thứ ba là năng lực quản lý nhà nước còn hạn chế dẫn đến tình trạng thực thi pháp luật chưa nghiêm chưa hiệu quả.

Ngoài ra hệ thống hạ tầng logistics chưa đồng bộ cũng là một rào cản lớn. Nhiều doanh nghiệp logistics Việt Nam có quy mô nhỏ, thiếu vốn, thiếu nhân lực chất lượng cao chưa thể cạnh tranh với các tập đoàn lớn từ nước ngoài. Trong khi đó khung pháp lý chưa có cơ chế ưu đãi hỗ trợ rõ ràng cho các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước hỗ trợ phát triển ngành logistics cần có những điều chỉnh cải cách pháp luật hợp lý. Trước tiên cần ban hành một luật chuyên ngành về logistics để thay thế cho việc điều chỉnh phân tán như hiện nay cần thống nhất khái niệm, điều kiện kinh doanh, phân loại dịch vụ, trách nhiệm của các bên liên quan và cơ chế giải quyết tranh chấp.

Ngoài ra cần đơn giản hóa thủ tục hành chính giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp. Nhà nước nên có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ trong việc đào tạo nhân lực, chuyển đổi số tiếp cận thị trường mở rộng phạm vi hoạt động đồng thời cần tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành trong việc quản lý thanh tra giám sát hoạt động logistics.

Dịch vụ logistics đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế hiện đại đang là một ngành có tiềm năng phát triển rất lớn tại Việt Nam. Tuy nhiên để khai thác tối đa tiềm năng đó cần có một hệ thống pháp luật rõ ràng thống nhất phù hợp với thực tiễn. Việc hoàn thiện pháp luật về logistics không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý còn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.