Pháp luật không chỉ là một hệ thống quy tắc do nhà nước ban hành còn là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Bên cạnh tính giai cấp thường được nhấn mạnh trong lý luận chính trị pháp lý pháp luật còn mang một đặc điểm vô cùng quan trọng khác là tính xã hội. Là yếu tố giúp pháp luật tồn tại bền vững phản ánh với điều chỉnh những quan hệ thực tế trong đời sống cộng đồng. Tính xã hội của pháp luật là cơ sở để pháp luật phát huy được vai trò là công cụ điều chỉnh hành vi xây dựng trật tự thúc đẩy phát triển.
Khái niệm về tính xã hội của pháp luật
Tính xã hội của pháp luật thể hiện ở việc pháp luật không tồn tại một cách biệt lập mà luôn gắn liền với đời sống con người. Pháp luật ra đời từ thực tiễn xã hội, phản ánh các nhu cầu chung của con người trong quan hệ với nhau. Nó phục vụ mục tiêu ổn định xã hội phát triển kinh tế từ đó bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân trong cộng đồng đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội.
Nói cách khác pháp luật không chỉ là công cụ thể hiện ý chí của một giai cấp mà còn là phương tiện điều tiết quan hệ xã hội. Nó phản ánh những chuẩn mực ứng xử được xã hội chấp nhận chuyển hóa thành quy tắc có tính bắt buộc để hướng dẫn hành vi của con người trong các tình huống cụ thể.

Ví dụ về tính xã hội của pháp luật
Một ví dụ điển hình cho tính xã hội của pháp luật là quy định về bảo vệ môi trường. Pháp luật không chỉ nghiêm cấm các hành vi xả thải gây ô nhiễm mà còn quy định nghĩa vụ phục hồi môi trường đối với các cá nhân tổ chức vi phạm. Điều này không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước mà còn bảo vệ không khí, nguồn nước, đất đai mà mọi người trong xã hội đều sử dụng. Như vậy quy định pháp luật này ra đời không chỉ vì một nhóm người mà vì sự an toàn chung của toàn xã hội.
Hay như luật hôn nhân và gia đình, pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái nhằm giữ gìn sự ổn định và hài hòa của đơn vị xã hội nhỏ nhất là gia đình. Khi gia đình ổn định thì toàn xã hội mới phát triển lành mạnh. Những quy định như cấm kết hôn cận huyết thống hay quy định độ tuổi kết hôn đều xuất phát từ nhu cầu bảo vệ giống nòi và giá trị truyền thống văn hóa.
Pháp luật không tồn tại trong xã hội nào
Trong lịch sử không phải mọi xã hội đều có pháp luật. Ở thời kỳ nguyên thủy, con người sống thành từng bầy đàn nhỏ, quan hệ xã hội còn đơn giản. Việc tổ chức đời sống chủ yếu dựa vào các quy tắc ứng xử mang tính đạo đức, tín ngưỡng hoặc tập tục truyền miệng. Trong bối cảnh đó pháp luật chưa xuất hiện vì chưa có nhu cầu điều chỉnh phức tạp và chưa có sự xuất hiện của nhà nước để ban hành và cưỡng chế các quy phạm pháp lý.
Chỉ khi xã hội phát triển đến mức độ có sự phân hóa giai cấp mâu thuẫn lợi ích với sản xuất hàng hóa khiến giao dịch tài sản trở nên phổ biến thì pháp luật mới ra đời như một công cụ để điều chỉnh các quan hệ này một cách minh bạch và công bằng. Như vậy, có thể nói pháp luật chỉ tồn tại trong những xã hội có tổ chức nhà nước và có nhu cầu điều chỉnh hành vi trong phạm vi rộng.
Nếu không có pháp luật xã hội sẽ ra sao
Nếu không có pháp luật xã hội sẽ không thể tồn tại ổn định. Mỗi người sẽ hành xử theo ý muốn chủ quan của mình mà không có giới hạn. Các xung đột, tranh chấp phát sinh sẽ không có cơ chế giải quyết hợp lý. Trật tự xã hội sẽ bị phá vỡ, quyền lợi của người yếu thế không được bảo vệ, tình trạng mạnh được yếu thua sẽ trở nên phổ biến. Lúc đó xã hội không còn là nơi đáng sống mà sẽ trở thành môi trường đầy bất ổn và nguy hiểm.
Không có pháp luật, các mối quan hệ xã hội sẽ mất đi sự định hướng và bảo đảm. Giao dịch kinh tế không có ràng buộc, hôn nhân không có sự bảo vệ, tài sản không có người quản lý tranh chấp không có cơ quan phân xử. Thiếu vắng pháp luật là thiếu vắng nền tảng cho sự công bằng, bình đẳng và văn minh.
Pháp luật còn là cơ sở để xây dựng lòng tin trong xã hội. Khi mọi người biết rằng hành vi sai trái sẽ bị xử lý còn hành vi đúng đắn sẽ được bảo vệ thì họ sẽ tự nguyện tuân thủ luật pháp. Điều này tạo nên môi trường sống ổn định, nơi con người có thể yên tâm học tập, lao động và cống hiến.
Tính xã hội và tính giai cấp trong mối quan hệ hài hòa
Trong lý luận pháp lý hiện đại, người ta không tuyệt đối hóa tính giai cấp mà thừa nhận tính xã hội có vai trò ngày càng lớn. Pháp luật ngày nay không chỉ phục vụ cho lợi ích của một nhóm người cầm quyền mà còn phải bảo đảm hài hòa lợi ích của nhiều tầng lớp, nhóm xã hội khác nhau.
Tại các quốc gia như Việt Nam, pháp luật xã hội chủ nghĩa hướng tới việc thể hiện ý chí của nhân dân lao động nhưng đồng thời vẫn bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, người nước ngoài, nhóm yếu thế. Điều đó cho thấy sự vận động ngày càng dân chủ, khách quan và xã hội hóa của hệ thống pháp luật.
Tính xã hội càng được đề cao thì pháp luật càng có giá trị thực tiễn. Những quy định xuất phát từ nhu cầu thật từ sự đồng thuận và chấp nhận của cộng đồng sẽ dễ đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng. Ngược lại, nếu luật xa rời thực tiễn, không xuất phát từ đời sống thì dù có cưỡng chế mạnh mẽ cũng khó tồn tại bền vững.
Tính xã hội là một trong những đặc điểm cốt lõi tạo nên bản chất và giá trị của pháp luật. Làm cho pháp luật trở thành công cụ điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội phản ánh lợi ích chung xây dựng trật tự bền vững cho cộng đồng. Không có pháp luật xã hội không thể tồn tại trong trạng thái ổn định. Do đó việc xây dựng pháp luật cần dựa trên nền tảng thực tiễn, nhu cầu xã hội và sự đồng thuận của cộng đồng. Khi pháp luật phục vụ con người với được con người tuân thủ tự nguyện thì đó là nền tảng cho một xã hội phát triển hài hòa và văn minh.
