Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu hoạt động từ năm 2000 nhưng mãi đến năm 2006 mới có một văn bản pháp lý chuyên ngành điều chỉnh toàn diện. Đó chính là Luật Chứng khoán số 70 năm 2006 được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2007. Sự ra đời của luật này đánh dấu cột mốc lịch sử trong việc thể chế hóa hoạt động của thị trường chứng khoán tại Việt Nam, đưa hoạt động này đi vào khuôn khổ rõ ràng góp phần ổn định phát triển hệ thống tài chính quốc gia.
Mục tiêu và phạm vi điều chỉnh của luật
Trước khi Luật Chứng khoán 2006 ra đời, thị trường hoạt động dựa trên các quyết định hành chính, văn bản dưới luật. Điều này khiến khung pháp lý chưa đầy đủ, dẫn đến nhiều rủi ro pháp lý cho nhà đầu tư cũng như doanh nghiệp. Luật Chứng khoán 2006 được xây dựng nhằm khắc phục những tồn tại đó, đồng thời thúc đẩy tính minh bạch, công bằng hiệu quả của thị trường.
Luật điều chỉnh các hoạt động chính như chào bán chứng khoán, niêm yết, giao dịch, lưu ký, thanh toán, hoạt động kinh doanh chứng khoán, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư với hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Các đối tượng chịu sự điều chỉnh gồm tổ chức, cá nhân trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Những nội dung trọng tâm trong luật
Luật quy định điều kiện cụ thể để chào bán chứng khoán ra công chúng, yêu cầu doanh nghiệp phải có vốn điều lệ tối thiểu cùng hoạt động có lãi trong thời gian nhất định. Bản cáo bạch phải trung thực, chính xác đầy đủ để nhà đầu tư có cơ sở đưa ra quyết định. Luật cũng đưa ra quy trình cấp phép chào bán, điều kiện tạm ngừng hay đình chỉ chào bán nếu phát hiện vi phạm.
Về giao dịch luật thiết lập hệ thống niêm yết chứng khoán tại các sở giao dịch với cả phân biệt giữa giao dịch trên sàn và giao dịch không qua sàn. Các quy định về công bố thông tin định kỳ và bất thường được áp dụng chặt chẽ đối với công ty đại chúng. Doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ công bố có thể bị xử lý từ cảnh báo đến hủy niêm yết..
Về tổ chức hoạt động, luật đưa ra quy định chi tiết về điều kiện thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư cùng các trung tâm lưu ký, thanh toán. Các tổ chức này phải có vốn pháp định, bộ máy quản lý chuyên nghiệp được cấp phép hoạt động. Đặc biệt hoạt động của các tổ chức trung gian này chịu sự giám sát chặt chẽ của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước..
Luật Chứng khoán 2006 cũng là lần đầu tiên quy định rõ ràng về hành vi thao túng thị trường, sử dụng thông tin nội gián, tiết lộ sai lệch thông tin hay lôi kéo nhà đầu tư một cách gian dối. Đây là những hành vi bị cấm tuyệt đối có thể bị xử lý hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng.
Thiết lập vai trò của cơ quan quản lý thị trường
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước được xác định là cơ quan thuộc Bộ Tài chính có chức năng quản lý chuyên ngành. Luật trao quyền cho cơ quan này trong việc cấp phép hoạt động, kiểm tra, thanh tra, giám sát xử lý vi phạm trên thị trường. Việc tăng cường vai trò với trách nhiệm của cơ quan quản lý giúp nâng cao hiệu quả giám sát, hạn chế tiêu cực thúc đẩy thị trường phát triển ổn định.
Luật cũng quy định cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch Đầu tư để phát hiện xử lý các vi phạm liên quan đến hoạt động rửa tiền, huy động vốn trái phép hay thao túng thị trường.
Những thành tựu sau khi luật được ban hành
Luật Chứng khoán 2006 đã tạo ra bước ngoặt lớn trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Thị trường chứng khoán sau đó ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về quy mô vốn hóa, số lượng doanh nghiệp niêm yết, lượng nhà đầu tư cá nhân lẫn tổ chức. Các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư ra đời hàng loạt, tạo thành một hệ sinh thái hỗ trợ thị trường phát triển bền vững.
Luật cũng tạo tiền đề để thị trường thu hút nguồn vốn lớn từ nước ngoài. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế bắt đầu quan tâm, đầu tư vào thị trường Việt Nam khi khung pháp lý đã rõ ràng, minh bạch hơn. Đây là cơ sở để niềm tin thị trường được củng cố, dòng vốn dài hạn được khơi thông.
Những bất cập và yêu cầu cải cách
Dù đóng vai trò rất lớn, Luật Chứng khoán 2006 cũng bộc lộ nhiều bất cập theo thời gian. Một số quy định chưa theo kịp sự phát triển của thị trường và các chuẩn mực quốc tế. Chẳng hạn, các biện pháp xử lý vi phạm còn nhẹ, chưa đủ răn đe. Cơ chế kiểm soát giao dịch chưa theo kịp công nghệ, chưa thể phát hiện ngay các giao dịch bất thường. Việc quản lý các công ty đại chúng chưa hiệu quả do thiếu công cụ xử lý minh bạch.
Cũng từ năm 2010 trở đi, thị trường chứng khoán bắt đầu bước vào giai đoạn điều chỉnh với nhiều biến động, khiến cho các quy định cũ trở nên lỗi thời. Đó chính là nguyên nhân dẫn tới việc Quốc hội phải ban hành Luật Chứng khoán mới vào năm 2019 nhằm thay thế toàn diện và mở đường cho một giai đoạn phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Luật Chứng khoán năm 2006 là nền tảng pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển theo hướng chuyên nghiệp, minh bạch, hội nhập. Dù còn nhiều điểm chưa hoàn thiện, nhưng không thể phủ nhận rằng chính Luật này đã thiết lập bộ khung căn bản, đưa hoạt động chứng khoán thoát khỏi tình trạng thử nghiệm từng bước trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế.
Ngày nay, khi nhắc lại Luật Chứng khoán 2006, đó là một cột mốc mang tính lịch sử. Luật đã hoàn thành vai trò tiên phong của mình và là bước đệm cho các cải cách sâu rộng hơn trong các luật sau. Việc tiếp nối và nâng cấp từ nền tảng này là điều cần thiết để Việt Nam từng bước đưa thị trường chứng khoán trở thành một trụ cột tài chính ngang tầm với các quốc gia trong khu vực và quốc tế.