Hệ thống thông tin kế toán là gì

Hệ thống thông tin kế toán là gì

 Hệ thống thông tin kế toán (AIS) là một cấu phần đặc biệt của hệ thống thông tin quản lý. nhằm thu thập, xử lý và báo cáo các thông tin liên quan đến các nghiệp vụ tài chính.

Đối tượng sử dụng thông tin kế toán

 -Các nhà quản lý: Là những người trực tiếp tham gia quản trị kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, ra các quyết định kinh doanh, chỉ đạo tác nghiệp trực tiếp tại đơn vị gồm có:

 + Hội đồng quản trị

 + Chủ doanh nghiệp

 + Ban giám đốc

 -Những người có lợi ích liên quan:

 + Lợi ích trực tiếp: Gồm các nhà đầu tư, chủ nợ(như các tổ chức tín dụng, ngân hàng),…của các đơn vị

 Ví dụ như:

 ++Các nhà đầu tư muốn đầu tư vào doanh nghiệp họ là đối tượng sử dụng thông tin kế toán là cái họ cần các thông tin chính xác về báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp dựa trên các bản báo cáo tài chính qua các năm mà doanh nghiệp hoạt động để có những quyết định xem có nên đầu tư vào hay không

 ++Các chủ nợ nói ở đây như là ngân hàng, các tổ chức tín dụng, họ sẽ chỉ cho doanh nghiệp vay tiền khi doanh nghiệp có những xác minh chuẩn về báo cáo tài chính và vốn điều lệ phù hợp với yêu cầu của họ, chính vì thế họ chính là đối tượng sử dụng thông tin kế toán của doanh nghiệp mà họ muốn cho vay

 + Lợi ích gián tiếp: Cơ quan thuế, cơ quan thống kê, các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tài chính, công nhân viên, các nhà phân tích tài chính…

 Do sự khác biệt về mục đích sử dụng, cách thức sử dụng, trình độ kế toán, quan hệ lợi ích… nên mỗi đối tượng trên có yêu cầu khác nhau đối với thông tin kế toán và tiếp cận hệ thống kế toán dưới những góc độ khác nhau

Vai trò của thông tin kế toán

 Xuất phát từ vị trí của thông tin kế toán mà ta thấy vai trò thông tin của KTQT là rất quan trọng, bao gồm các vai trò chủ yếu sau đây:

 Cung cấp thông tin cho quá trình xây dựng kế hoạch và dự toán. Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu phải đạt được và vạch ra các bước thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Các kế hoạch này có thể dài hạn hay ngắn hạn. Kế hoạch mà nhà quản trị thường lập có dạng dự toán. Dự toán là sự liên kết các mục tiêu lại với nhau và chỉ rõ cách huy động và sử dụng những nguồn lực sẵn có để đạt các mục tiêu. Trong số các bảng dự toán về lưu chuyển tiền tệ là quan trọng nhất, vì nếu thiếu tiền do không được dự trù, doanh nghiệp sẽ không có khả năng tạo ra lợi nhuận theo kế hoạch, dù kế hoạch xây dựng rất hợp lý. Do đó, để chức năng lập kế hoạch và dự toán có tính hiệu lực và khả thi cao thì chúng phải dựa trên những thông tin kế toán hợp lý và có cơ sở.

 Cung cấp thông tin cho quá trình tổ chức thực hiện. Với chức năng thực hiện, nhà quản trị phải biết cách liên kết tốt các yếu tố giữa tổ chức, con người với nguồn lực lại với nhau sao cho kế hoạch một cách hiệu quả nhất. Để thực hiện tốt chức năng này, nhà quản lý cũng cần có nhu cầu rất lớn đối với thông tin kế toán, nhất là thông tin KTQT. Nhờ có thông tin do KTQT cung cấp mà nhà quản trị mới có thể đề ra quyết định đúng đắn trong quá trình lãnh đạo hoạt động hàng ngày, phù hợp với mục tiêu chung.

 Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra đánh giá. Nhà quản trị sau khi lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực hiện kế hoạch đòi hỏi phải kiểm tra và đánh giá thực hiện nó. Phương pháp thường dùng là so sánh số liệu kế hoạch hoặc dự toán với số liệu thực hiện, để từ đó nhận diện các sai lệch giữa kết quả đạt được với mục tiêu đã đề ra. Để làm được điều này nhà quản trị cần được cung cấp các báo cáo thực hiện, có tác dụng như một bước phản hồi giúp nhà quản trị có thể nhận diện những vấn đề cần phải điều chỉnh cho hợp lý.

 Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định. Ra quyết định không phải là một chức năng riêng biệt mà là sự kết hợp cả ba chức năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá, tất cả đều đòi hỏi phải có quyết định. Phần lớn những thông tin do KTQT cung cấp nhằm phục vụ chức năng ra quyết định. Để có thông tin thích hợp, đáp ứng cho nhu cầu thích hợp của quản lý, KTQT sẽ thực hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn vì những thông tin này thường không có sẵn. KTQT sẽ chọn lọc những thông tin cần thiết, thích hợp rồi tổng hợp, trình bày chúng theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải thích quá trình phân tích đó cho các nhà quản trị. KTQT không chỉ giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định không chỉ bằng cách cung cấp thông tin thích hợp mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào những tình huống khác nhau, để từ đó nhà quản trị lựa chọn, ra quyết định thích hợp nhất.

 Góp phần đổi mới cải tiến công tác quản lý của DN. Nguồn lực của doanh nghiệp được kế toán đo lường, định lượng thành các chỉ tiêu kinh tế, biểu hiện dưới hình thức giá trị nhằm cung cấp thông tin có giá trị cho chức năng kiểm tra và đánh giá. Quá trình kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh là nhằm nhận biết tiến độ thực hiện và phát hiện những nguyên nhân sai lệch giữa kết quả đạt được so với mục tiêu đặt ra. Ngoài ra quá trình này còn giúp doanh nghiệp phát hiện những thay đổi sẽ xảy ra. Nếu kết quả kiểm tra đánh giá đúng sẽ có tác dụng tốt cho doanh nghiệp trong việc điều chỉnh kế hoạch, là cơ sở để đề ra các giải pháp thực hiện trong tương lai. Cũng thông qua quá trình kiểm tra đánh giá, còn giúp cho doanh nghiệp phát hiện những tiềm năng, thế mạnh cần được khai thác và khai thác bằng cách nào sẽ có hiệu quả nhất, đồng thời phát hiện những yếu kém cần được điều chỉnh.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống thông tin kế toán

 Theo nghiên cứu của tác giả Heidi Vander Bauwhede (2001) với đề tài nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán, các công ty niêm yết tại châu Âu khoảng thời gian trước khi thông qua kế hoạch hành động và khuyến nghị của Liên minh châu Âu, thông qua việc kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng một số các nhân tố, như: Quyết định của nhà quản lí đối với công tác kế toán, kiểm soát nội bộ và thông tin chất lượng cao có liên quan về cấu trúc vốn và kiểm soát để thực hiện quyền quản trị công ty, kiểm toán độc lập. Những nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng báo cáo tài chính cũng như đưa ra quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định lượng, cụ thể là mô hình hồi quy tuyến tính.

 Tác giả Maria Consuelo Pucheta – Martinez & Cristina De Fuentes (2007) đã có đề tài nghiên cứu về “Tác động các đặc điểm của Ủy ban Kiểm toán đối với việc nâng cao chất lượng thông tin kế toán” tại Tây Ban Nha,  mục đích nhằm phân tích mối quan hệ giữa khả năng công ty sẽ nhận được báo cáo kiểm toán đủ điều kiện (như một thước đo chất lượng thông tin tài chính) và sự tồn tại, đặc điểm của Uy ban Kiểm toán (AC). Các công ty niêm yết đã tự nguyện tạo ra một AC trong giai đoạn sau khi xuất bản năm 1998 của Bộ Luật doanh nghiệp Tây Ban Nha. Tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy Logistic để kiểm tra mối quan hệ giữa trình độ báo cáo kiểm toán và các biến được xác định, một số nhân tố được xác định, gồm: Quy mô của doanh nghiệp; Danh tiếng của doanh nghiệp; Nhiệm kì kiểm toán; Sức mạnh thương lượng của khách hàng; Đòn bẩy; Nhà quản lí; Báo cáo kiểm toán của năm trước; Tập trung quyền sở hữu.

 Theo nghiên cứu của Zsuzsanna Tóth (2012) với đề tài “the Current  Role  of accounting information systems”, tác giả khẳng định: xử lý thông tin kế toán là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình tiền quyết định.Tức là quá trình quyết định của các nhà quản lý, trong đó AIS là khung của các hoạt động kế toán trong thực tiễn. AIS có vai trò quan trọng trong  việc ra  quyết định của nhà quản lý, giúp nhà quản lý xây dựng hệ thống quản trị chi phí và báo cáo kiểm soát. Bài viết phân tích về vai trò của AIS đối với việc ra quyết định của nhà quản trị; Vai  trò của tin học trong sự phát triển của AIS.

 Theo nghiên cứu của Đặng Thị Kiều Hoa (2016) nghiên cứu về “Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) của Doanh nghiệp vừa và nhỏ – Bằng chứng thực nghiệm tại các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn TP. HCM”,tác giả đưa vào phân tích các nhân tố: Quy định về Thuế; Quy mô công ty; Người lập BCTC; Tổ chức kiểm toán; Quyết định của nhà quản trị; Các quy định pháp lí về kế toán. Để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến BCTC trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại TP. HCM, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu: Định lượng (sử dụng mô hình SPSS 22.0) và định tính (xây dựng bảng khảo sát). Kết quả cho thấy, có 4 nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng BCTC, là: Quy định về thuế, quy mô công ty, người lập BCTC, các quy định pháp lý về kế toán.

  

  

  

  

 Tag: giáo 1 chu pdf sản ngành đồ sách khái niệm 3 lời