Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh

 Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh

 Lý Chiêu Hoàng (chữ Hán: 李昭皇 Tháng 9, 1218 – Tháng 3, 1278) còn gọi là Lý Phế hậu (李廢后) hay Chiêu Thánh Hoàng hậu (昭聖皇后) gọi tắt là Chiêu Hoàng, là hoàng đế thứ 9 và cũng là cuối cùng của triều đại nhà Lý, trị vì từ năm 1224 đến năm 1225. Bà là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng không phải là vị vua nữ đầu tiên, vị nữ quân chủ đầu tiên là Nữ vương Trưng Trắc.[1][2] Đặc biệt hơn, bà được chính vua cha Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong có khả năng do sự sắp đặt của Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, đang nắm quyền lực trong triều, cũng là chú họ bên ngoại của bà.

 

 Năm 1226, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành Chiêu Thánh hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 (lúc đó Chiêu Hoàng 19 tuổi), vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi. Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà.

 

 Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Thái Tông. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm. Cuộc đời của bà đầy phức tạp và bi kịch, trở thành nguồn cảm hứng của rất nhiều tác phẩm thi ca nhạc họa.

 Thân thế

 Chiêu Hoàng ban đầu có tên là Lý Phật Kim (李佛金), sau đổi là Lý Thiên Hinh (李天馨) là con gái thứ hai của Lý Huệ Tông và Huệ hậu Trần Thị Dung(Hoàng Hậu), sinh vào tháng 9 năm Mậu Dần (1218) tại kinh đô Thăng Long, Đại Việt, tước hiệu là Chiêu Thánh công chúa (昭聖公主).

 

 Bà có một chị gái là Thuận Thiên công chúa, sau được gả cho Khâm Minh Đại vương Trần Liễu, là con trưởng của Trần Thừa và là anh trưởng của Trần Cảnh.

 

 Hoàng đế cuối cùng

 Nhà Lý đã suy yếu từ thời ông nội Lý Chiêu Hoàng là Lý Cao Tông. Đến khi cha bà là Lý Huệ Tông lên ngôi, thì chính quyền nhà Lý đã quá suy yếu, để các thế lực khác tranh chấp.

 

 Năm Giáp Thân, Kiến Gia năm thứ 14 (1224), tháng 10, Lý Huệ Tông không có con trai, ông phải lập Chiêu Thánh công chúa làm Hoàng thái nữ (皇太女), rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo (天彰有道), với tôn hiệu là Chiêu Hoàng (昭皇).

 

 Năm Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 (1225), họ Trần do nắm quyền hành, lần lượt được ban tước quan trọng cho con em trong họ. Trần Bất Cập là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú được phong Cận Thị thự Lục cục Chi hậu[3], Trần Thiêm làm Chi Ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ.

 

 Trần Cảnh là con quan Thái úy Trần Thừa, mới 8 tuổi được đưa vào hầu gần Chiêu Hoàng. Trần Cảnh cùng gần tuổi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Từ đó, nhà Trần được thành lập.

 

 Năm Ất Dậu (1225), ngày 21 tháng 10 (tức ngày 22 tháng 11 dương lịch), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm ấy (tức ngày 10 tháng 1 năm 1226), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần, sử gọi là Trần Thái Tông.[4] Chiêu Hoàng được Thái Tông phong làm Hoàng hậu.

 

 Từ đây, nhà Lý hoàn toàn chấm dứt sau 216 năm cai trị.

 

 Đại Việt sử ký toàn thư

 Đại Việt Sử ký Toàn thư chép:

 

 

 … Một hôm, Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn chầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: “Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?”

 

 Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn chầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: “Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh”. Chiêu Hoàng cười và nói: “Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó”. Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: “Bệ hạ đã có chồng rồi”.

 

 Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng:

 

 “Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói “Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay”. Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết”.

 

 

 — Đại Việt Sử ký Toàn thư

 Đại Việt sử lược

 Sự việc do Đại Việt sử lược chép lại khác đi so với Toàn thư. So với Toàn thư, Đại Việt sử lược là sách xưa hơn (vào khoảng thời Trần, còn Toàn thư là thời Hậu Lê) nên thông tin cũng rất đáng tham khảo.

 

 (Lưu ý rằng: Đại Việt sử lược bản gốc đã bị đem sang Trung Quốc cùng nhiều bộ sử liệu khác sau giai đoạn Minh thuộc vào cuối đời Trần. Tư liệu được tham khảo hiện tại thực chất xuất phát từ sách Việt sử lược được các học giả Trung Quốc sưu tập lại rồi biên soạn vào pho đại bách khoa Khâm định tứ khố toàn thư dưới triều Thanh. Vì vậy mà sách này đã giáng tước vị hoàng gia của tất cả triều đại Việt Nam được biên lại xuống tước Vương).

 

 

 Năm Ất Dậu [năm 1225-ND] là năm Kiến Gia thứ 15. Tháng 6, nhà vua nhường ngôi cho con thứ hai là Chiêu Thánh công chúa. Chiêu Thánh lên ngôi lấy hiệu là Chiêu Vương, tôn vua Huệ Tông làm Thái thượng vương, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo.

 

 Mùa đông, tháng 11, Thái thượng vương thấy Nữ vương còn nhỏ, lấy làm lo âu mới cho mời Phùng Tá Chu đến mà định mưu nói rằng: “Trẫm vì không có đức, Trẫm mắc tội với trời, cho nên bị tuyệt hậu, không có con để nối dõi. Nay Trẫm truyền ngôi cho con gái, nhưng thấy một người đàn bà mà khiến bảo đám đàn ông, như có điều là bọn chúng không giúp cho, tất đến lúc hối hận lại thì cơ nghiệp đã mất rồi. Chi bằng Trẫm theo cái phép thuở xa xưa của Đường Nghiêu, cái thể thức gần đây là Nhân Tổ (tức Lý Nhân Tông), để kén chọn người hiền mà trao ngôi cho. Nay có điều Trẫm thấy là mỗ người con thứ hai của Thái úy (Trần Thừa) tuổi hãy còn nhỏ mà tướng mạo khác thường, tất có thể giúp đời, yên dân. Cho nên, Trẫm muốn dùng làm con mà làm chủ cơ nghiệp nước nhà. Vả lại, Trẫm thấy Chiêu vương cũng xứng đôi với mỗ. Các khanh hãy vì Trẫm mà nói với quan Thái úy rõ”.

 

 Thái Tổ (Trần Thừa) cũng chưa tin điều ấy. Quan Tả phụ là Nguyễn Chánh Lại bảo rằng: “Họ Nguyễn (tức họ Lý, do sách này viết vào thời Trần) có nước đấy. Vua hiền thì có đến sáu, bảy người gầy dựng nên cơ nghiệp, mà cái đức của họ lại có thừa, để lại cái ơn trạch thấm nhuần vào lòng người đã lâu dài rồi. Một sớm, nhà vua sợ có người khác họ làm việc kế tự nên mới có ý thăm dò thử, để xem cái ý của ta như thế nào đấy. Nếu ta nhân đó mà nhận lời, thiên hạ tất sẽ bảo Thái úy thực đã có ý soán nghịch”.

 

 Thái úy (Trần Thừa) muốn nghe theo lời của Nguyễn Chánh Lại thì quan Thượng phẩm Phụng ngự là Trần Thủ Độ nói rằng: “Lời Tả phụ sai rồi! Nếu mà vương thượng có con trai mà lại nhường ngôi cho Nhị lang (tức Trần Cảnh) thì việc trái nghĩa ấy ta không thể vâng chiếu được. Nay, Vương thượng không người kế tự, ý muốn chọn người hiền để phó thác ngôi cao. Đó là vương bắt chước việc nhường ngôi của Nghiêu Thuấn thuở xa xưa. Vậy mà lo ngại nữa sao? Huống chi, ngôi chí tôn không thể để khuyết lâu, mà ý thoái lui của vương thượng thì đã quyết, vương thượng đã dứt khoát chọn người khác họ để cho nối ngôi, liệu ta không muốn nghe theo mà được chăng? Nhị lang được vương thượng chọn cũng là ý trời, trời đã ban cho mà không nhận là có tội ấy. Xin quan Thái úy hãy xét kỹ”.

 

 Mùa thu, tháng chạp nhà vua sai quan Nội thị Phán thủ là Phùng Tá Chu, quan Nội hành khiển Tả ty Lang trung là Trần Chí Hoành, các tướng văn võ trong ngoài và các viên quan lại hãy quản lãnh thuyền rồng, chuẩn bị pháp giá đến phủ Cương Tinh mà đón Thái tổ ta (Trần Thừa).

 

 Đến ngày mùng một tháng chạp năm đó [năm Ất Dậu-1225] con của Trần Thừa là Trần Cảnh nhân việc nhường ngôi mà lên làm vua ở tại điện Thiên An. Rồi tôn Thuận Trinh Vương hậu làm Thái hậu và giáng Chiêu vương xuống làm Chiêu Thánh Vương hậu. Đổi niên hiệu là Kiến Trung. Thái thượng vương cùng với mẹ của ngài là bà Thái hậu Đàm thị đi ra ở nơi chùa Phù Liệt, lấy hiệu là Huệ Quang Thiền sư.

 

 

 — Đại Việt sử lược

 Theo đó, Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vào tháng 6 năm Ất Dậu (năm 1225) và nhường ngôi vào tháng 11, chỉ vỏn vẹn gần nửa năm trên ngai vàng.

 

 Sự việc Phùng Tá Chu khuyên can không được ghi chi tiết ở Toàn thư, tuy nhiên khi ghi chép về sự việc nhường ngôi thì Ngô Sĩ Liên có phê rằng: “Các quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ hậu và Vũ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là người có tội với họ Lý.” Điều này chứng tỏ thông tin Phùng Tá Chu dẫn việc Lữ hậu Võ hậu ảnh hưởng chuyện Huệ Tông quyết định chọn Trần Cảnh làm rể của Đại Việt sử lược là chính xác.

 

 Hoàng hậu Đại Việt

 Bị phế truất

 Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được phong làm Hoàng hậu, trở thành vị Hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử, vì khi đó bà mới 7 tuổi. Bà chung sống với Thái Tông Hoàng đế hơn 10 năm, tình cảm khá sâu sắc, được Thái Tông rất yêu thương và kính trọng.

 

 Năm Quý Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình thứ 2 (1233), Lý Hoàng hậu hạ sinh ra Thái tử Trần Trịnh (陳鄭), nhưng Thái tử chết ngay sau khi sinh không lâu[5].

 

 Năm Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), Thái sư Trần Thủ Độ cùng Thiên Cực công chúa lo sợ huyết thống hoàng gia bị đứt đoạn, nên ép Thái Tông phải bỏ Lý Thiên Hinh để lấy chị dâu là Thuận Thiên công chúa đang có thai 3 tháng. Thái Tông Hoàng đế phản đối, đang đêm trốn khỏi kinh thành để lên gặp sư Phù Vân ở Yên Tử nương nhờ. Thái sư vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng hoàng đế cũng phải chịu nghe theo.

 

 Thuận Thiên công chúa được lập làm Hoàng hậu thay thế. Lý Thiên Hinh bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa, không rõ hành trạng của bà trong thời gian sau khi bị giáng tước.

 

 Vì chuyện này, Hoài vương Trần Liễu nổi loạn ở sông Cái, nhiều năm nhiều tháng không ngừng. Cuối cùng, Trần Liễu đến xin Thái Tông tha tội, hai anh em ôm nhau khóc thảm thiết, tuy nhiên Trần Thủ Độ dựa vào tội trạng của Liễu mà giáng Liễu làm An Sinh vương (安生王), được ban các vùng Yên Sinh, Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Hưng, Yên Bang làm ấp thang mộc. Những tướng sĩ, quân lính đi theo làm loạn đều bị xử tử.

 

 Tái giá với Lê Phụ Trần

 Năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), sau cuộc chiến với quân đội Mông Cổ vào năm 1258, Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh công chúa cho Ngự sử đại phu Lê Phụ Trần – một thuộc tướng dòng dõi của Lê Đại Hành. Lê Phụ Trần vốn tên Lê Tần (黎秦), người Ái Châu, con của danh tướng Lê Khâm có công giúp Trần Thái Tổ đánh dẹp Hoài Đạo vương Nguyễn Nộn. Lê Phụ Trần năm đó được Thái Tông ban cho chức Ngự sử đại phu, tức Bảo Văn hầu (保文侯), uy danh lẫy lừng, công cao không kể xiết. Thậm chí Thái Tông còn nói:

 

 ” Trẫm không có khanh, thì đâu có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng được trọn vẹn về sau”.[6]

 

 Chiêu Thánh công chúa gả cho Lê Phụ Trần năm 40 tuổi, đường đường chính chính là phu nhân của Bảo Văn hầu, nửa đời còn lại cũng có chốn nương tựa. Hai vị sống với nhau 20 năm, sinh ra con trai là Lê Tông, con gái là Lê Ngọc Khuê. Trần triều còn đặc biệt phong cho công tử Lê Tông tước Thượng vị hầu, vốn chỉ là tước vị của các Hoàng tử hoặc con trai của Thân vương, và tôn nữ Lê Ngọc Khuê được phong làm Công chúa, ban hiệu Ứng Thụy (應瑞). Trong thời điểm đó, không ít tôn nữ được phong làm Công chúa, như Phụng Dương công chúa, nhưng đều là họ Trần, chỉ duy Ngọc Khuê mang họ Lê mà vượt quy cách phong Hoàng nữ ngay từ bé. Hậu duệ được đãi ngộ như vậy, hẳn là do công lao của Bảo Văn hầu Lê Phụ Trần và hơn hết là xuất thân nhạy cảm cùng sự áy náy, kiêng nể của Trần triều đối với Bảo Văn hầu phu nhân Lý Thiên Hinh.

 

 Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê chê trách nặng lời việc vua Trần Thái Tông mang bà là vợ cũ, hơn nữa còn là cựu Hoàng đế, gả cho Lê Phụ Trần là bầy tôi. Sử gia Ngô Sĩ Liên trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư viết gay gắt: “Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy ở đây lần nữa”

 

 Ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vẫn còn câu ca dao thác lời Chiêu Hoàng trách Trần Cảnh về việc này:

 

 Trách người quân tử bạc tình

 Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao![7]

 Qua đời

 Đầu năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Phù thứ 6 (1278), tháng 3, Chiêu Thánh công chúa qua đời, thọ 61 tuổi.[8] Bà qua đời sau gần 1 năm tròn so với Trần Thái Tông (qua đời năm 1277).

 

 Tương truyền, bà về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh) thì qua đời tại đó, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như hoa đào.[9] Bà được táng ở bìa rừng Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức. Bà được người đời sau lập đền thờ, gọi là Long miếu (đền Rồng). Sở dĩ Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý.[9]

 

 Sách Việt sử tiêu án có chép lại thuyết dân gian rằng bà đã nhảy hồ tự sát. Nguyên văn: “Bà Chiêu Thánh mất. Bà đã bị giáng là Công chúa, rồi gả cho Phụ Trần, khi ấy mất đã 61 tuổi. Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng: Bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Hoàng mà đặt ra thuyết ấy.”

 

 Đền thờ của bà hiện nay tại Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, (tỉnh Bắc Ninh), còn gọi là Đền Rồng. Tháng 1 năm 2009, đền được nhà nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Tháng 4 năm 2009, đền đã bị đập bể hoàn toàn để chuẩn bị xây dựng mới, gây đau lòng cho người dân.[10]

 

 Nhà thơ Tản Đà có bài thơ Vịnh Lý Chiêu Hoàng như sau:

 

 Quả núi Tiên Sơn có nhớ công

 Mà em đem nước để theo chồng

 Ấy ai khôn khéo tài dan díu

 Những chuyện hoa tình có biết không?

 Một gốc mận già[11] thôi cũng phải

 Hai trăm năm lẻ thế là xong

 Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo[12]

 Khách khứa nhà ai áo mũ đông.

 Quan hệ với Trần Bình Trọng

 Sử sách không ghi chép giữa bà với Trần Bình Trọng có quan hệ ruột thịt gì hay không. Trần Bình Trọng là con cháu hậu duệ vua Lê Đại Hành, còn Phụ Trần thì mang họ Lê. Một mối quan hệ tương thích đến kì lạ, khi nhìn vào cách phong tước của Trần triều, chữ đầu tiên trong tước hiệu có thể cho biết vị quý tộc đó xuất thân từ gia đình nào. Như con của An Sinh vương Trần Liễu đều mang chữ Hưng (Hưng Đạo vương, Hưng Vũ vương,…), con của Thái Tông Trần Cảnh đều có chữ Chiêu (Chiêu Minh vương, Chiêu Quốc vương, Chiêu Văn vương,…). Còn Trần Bình Trọng lại mang tước Bảo Nghĩa hầu (保義侯) mà Phụ Trần có tước hiệu Bảo Văn hầu. Điều này tăng thêm tính xác đáng của giả thuyết Lê Phụ Trần là cha của Trần Bình Trọng và Trần Bình Trọng có thể là con của Lê Phụ Trần với Lý Chiêu Hoàng[13]. Ngoài ra, căn cứ theo các luật lệ của triều Trần, vốn bài trừ ngoại thích, chỉ tin người trong họ, mà Trần Bình Trọng vốn mang họ Lê, tức là người ngoại tộc, người ngoại tộc phải xông pha trận mạc, công cao lắm mới được gia phong, vậy mà Bình Trọng ít tuổi như vậy đã được phong tước Hầu, thậm chí trước cả khi ông lập công ở trận Thiên Mạc. Điều này là một ân điển, đãi ngộ cực kì hiếm thấy, mà trong khoảng thời gian đó, chỉ có một vị họ Lê còn bé mà được phong Hầu, đó là Thượng vị hầu Lê Tông. Vậy nên có nhiều khả năng, Trần Bình Trọng với Lê Tông cùng là một người, con của Lê Phụ Trần cùng Lý Chiêu Hoàng, anh trai của Ứng Thụy công chúa Lê Ngọc Khuê. Chuyện ban tên, quốc tính không phải hiếm gặp trong nhà Trần, nên do tài năng và công lao, Lê Tông đã được ban họ Trần và đổi sang tên Bình Trọng.

 

 Nếu đúng là như vậy, thì Lý Chiêu Hoàng là một tổ mẫu nhiều đời của Trần Minh Tông, cháu 4 đời của Trần Thái Tông, vì mẹ của Minh Tông là Chiêu Từ Hoàng thái hậu, con gái của Trần Bình Trọng cùng Thụy Bảo Công chúa, một người con gái lớn của Trần Thái Tông.

 

 Hậu duệ

 Sử sách ghi lại Lý Chiêu Hoàng có tất cả ba người con.

 

 Với Thái Tông Hoàng đế Trần Cảnh:

 Hoàng thái tử Trần Trịnh (陳鄭), mới hạ sịnh ra được phong làm Đông cung, nhưng bất hạnh chết yểu không lâu sau.

 Với Bảo Văn hầu Thiếu sư Lê Phụ Trần

 Thượng vị hầu Lê Tông, có nhiều khả năng là Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng.

 Ứng Thụy Công chúa Lê Ngọc Khuê ( 應瑞公主黎玉奎 ? Tân Dậu 1261-?), con gái út, một vài nơi chép là Minh Khuê (明奎) hoặc Ngọc Khê (玉渓) và hiệu Kiều Thụy (翘瑞), được đặc ân phong Hoàng nữ, hạ giá lấy Trạng nguyên Trần Cố (陳固), quê ở xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng, lộ Hải Đông (nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, Hải Dương), đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Dần. Năm Thiệu Long thứ 9 (1266) đời Trần Thái Tông, sau làm quan đến chức Hiến sát sứ, Thiên chương các đại học sĩ. Trần ngọc gia phả đã ghi chép nhầm Ứng Thụy công chúa với Phụng Dương công chúa, khiến Ngọc Khuê bỗng nhiên trở thành chính thất vương phi của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, mẹ của Văn Túc vương Trần Đạo Tái, mặc dù thực tế là công chúa Ngọc Khuê và Chiêu Minh vương hơn kém nhau 20 tuổi, Ngọc Khuê hơn Trần Đạo Tái 5 tuổi.

  

  

  

  

  

  

  

 Tag: chiêu hoàng quận 6 chung cư cảnh diamond palace 22 phường vua xpose bình tân sóng gió 116 bán q6 hàng hỷ tiệc cưới nhường tông beer club hộ vương 101 154 24 hcm 156 truyện x pose mối tình đất khu