Nhận xét báo cáo tài chính công ty vinamilk

 Nhận xét báo cáo tài chính công ty vinamilk

 1. Tình hình hoạt động kinh doanh:

  Kết thúc năm 2018, Vinamilk đạt 52.561 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 3%, lợi nhuận sau thuế đạt 10.205 tỷ đồng, giảm 1% so với năm trước. Nguyên nhân làm cho sự tăng trưởng chậm lại được biết là do sự suy giảm nhu cầu bất ngờ của toàn ngành sữa Việt Nam, thậm chí cả với các nước ASEAN. Biên lợi nhuận gộp giảm từ 47.48% năm 2017 xuống còn 46.82% năm 2018 tuy nhiên đây vẫn là mức tỷ suất lợi nhuận gộp hấp dẫn nhà đầu tư. Chi phí lãi vay tăng 74% so với năm trước nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trên doanh thu. Chi phí bán hàng tăng 6.32%, nâng tỷ trọng chi phí bán hàng/doanh thu thuần tăng từ 22.6% năm 2017 lên 23.34% năm 2018. Chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 10.6%

 2. Tình hình sử dụng tài sản:

  Năm 2018, tổng tài sản của Vinamilk đạt 37.366 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 2017, đáng kể đến là hàng tồn kho tăng hơn 1.500 tỷ đồng (+37.42%), tài sản cố định tăng 2.756 tỷ đồng (+25.98%). Ngoài ra thì các khoản phải thu ngắn hạn, dài hạn và đầu tư tài chính dài hạn cũng tăng so với năm trước. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn giảm 1.887 tỷ đồng (-17.87%), tài sản dở dang dài hạn giảm 1.060 tỷ đồng (-54.98%) và bất động sản đầu tư giảm 5.27% so với năm 2017. Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu cuối năm 2018 đạt 26.271 tỷ đồng (tăng 10%), nợ ngắn hạn đạt 10.639 tỷ đồng (tăng 4%) và nợ dài hạn được trả bớt, chỉ còn 455 tỷ đồng, giảm 24% so với năm 2017.

 Như vậy, với phần vốn chủ sở hữu tăng thêm cùng với phần thu được từ các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, công ty sử dụng chủ yếu vào mua sắm hàng tồn kho và tài sản cố định. Cuối năm, tiền tồn quỹ hơn 1.500 tỷ, tăng 58% so với năm trước.

 3. Khả năng thanh toán:

  Khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty nhìn qua 8 quý đang có xu hướng giảm, quý 4-2018 chỉ đạt 1.93 lần, thấp hơn mức an toàn. Khả năng chi trả lãi vay (số lũy kế 4 quý) của Vinamilk vẫn rất tốt tuy có giảm, khả năng chi trả gốc vay tăng dần khi nhìn qua 4 quý. Như vậy, công ty cần nỗ lưc kéo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn lên trên vùng an toán để tránh những rủi ro về tài chính trong tương lai.

 4. Khả năng sinh lợi:

VNM roe.png

  Khả năng sinh lợi của công ty biến động qua 4 năm, ROE trung bình năm khoảng 41.37%. Năm 2018, ROE đạt 40.7%, ROA đạt 28.34% cao hơn nhiều so với bình quân ngành (ROA: 8.01%, ROE: 14.64%). Đòn bẩy tài chính của công ty cũng tăng qua các năm nhưng vẫn thấp hơn so với bình quân ngành là 1.83 lần. Chỉ số P/E của công ty hiện tại là 23.49, cao hơn so với bình quân ngành là 19.56. Lãi cơ bản trên mỗi cổ phiếu (EPS) của công ty đạt khoảng 5.840 đồng, cao hơn so với bình quân ngành là 4.119 đồng. Cổ phiếu của Vinamilk hiện đang được mua với giá khoảng 135.000 đồng/ cổ phiếu, cao hơn khoảng 9 lần so với giá trị sổ sách.

 Với tình hình hoạt động kinh doanh năm 2018 hơi chững lại, nhà đầu tư ít nhiều cũng cảm thấy lo lắng cho khả năng tăng trưởng của Vinamilk trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên với năng lực tài chính mạnh mẽ cùng những dự đoán tích cực về sự tăng trưởng chung của ngành sữa năm 2019 thì theo bà Mai Kiều Liên – Tổng giám đốc Công ty cổ phần sữa Việt Nam: “Đầu tư dài hạn vào cổ phiếu Vinamilk sẽ lời”.

 (Các ý kiến nêu trong bài phân tích ở trên hoàn toàn dựa trên quan điểm cá nhân.)

 Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk, HOSE: VNM) công bố BCTC hợp nhất quý 3/2019 với cả chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận đều tăng trưởng với lãi ròng 9 tháng đầu năm gần 8,380 tỷ đồng, thực hiện được 80% kế hoạch năm.

 Trong quý 3/2019, doanh thu thuần của VNM đạt hơn 14,304 tỷ đồng, tăng 4% so cùng kỳ. Lợi nhuận trước thuế đạt hơn 3.254 tỷ đồng, tăng 7,2% cùng kỳ năm trước, lợi nhuận sau thuế đạt 2.677 tỷ đồng. VNM vẫn duy trì được biên lợi nhuận gộp ở mức cao trên 47%. Chi phí bán hàng của Vinamilk kỳ này ở mức trên 3.292 tỷ đồng, giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước song 9 tháng chi phí bán hàng trên 9.292 tỷ đồng, tăng 4,3% cùng kỳ năm trước. Tính trung bình mỗi ngày Vinamilk chi 35,7 tỷ chi phí bán hàng.

 Vinamilk hiện nay có hơn 10.838 tỷ đồng tiền và tiền gửi ngân hàng, chiếm hơn 25% tổng tài sản, hiện đã vượt 40.100 tỷ. Nhờ khoản tiền gửi khổng lồ này mà doanh thu tài chính quý 3 đạt hơn 207 tỷ, 9 tháng đạt 574 tỷ. Nguồn tiền dồi dào này cũng sẽ giúp Vinamilk có nhiều dư địa để M&A các công ty hoàn thiện chuỗi giá trị trong ngành đồ uống, bên cạnh mảng sữa. Trong năm 2019, Vinamilk đã mua 40,53% vốn cổ phần của công ty GTNFoods, công ty đang sở hữu Sữa Mộc Châu.

 Mặc dù có nguồn tiền dồi dào, Vinamilk vẫn đẩy mạnh đi vay trong năm 2019, vay ngắn hạn 4.188 tỷ trong khi đầu năm chỉ vay hơn 1.060 tỷ. Tuy nhiên nếu so với tổng tài sản hơn 40.000 tỷ, mức nợ vay này vẫn trong tầm kiểm soát.

 Nhìn lại ngành sữa Việt Nam từ đầu năm đến nay đang có những bước chuyển biến tích cực hơn. Theo số liệu của Kantar Worldpanel, trong Q2 – 2019, sữa và các sản phẩm từ sữa tiếp tục là ngành hàng dẫn đầu thị trường FMCG với mức tăng trưởng ấn tượng, lần lượt là 14,7% và 6,8% về giá trị tại khu vực nông thôn và thành thị (4 thành phố lớn). Đây là dấu hiệu cho thấy nhu cầu ngành đã hồi phục trở lại.

 Tuy vậy nhưng tốc độ tăng trưởng của VNM vẫn rất chậm dù là công ty đầu ngành. Điều này là do đối với ngành sữa, VNM đã tăng trưởng tối đa và khó để có thể tăng trưởng nhanh được như những năm trước nữa. Cũng chính vì vậy mà VNM hiện chọn chiến lược M&A, đồng thời ra mắt nhiều sản phẩm mới như My Joy, Trà sữa,… mở rộng điểm bán lên 270.000 điểm, tăng cường maketing và khuyến mãi để nâng thị phần. Kết quả là tính trong quý 2/2019, thị phần tăng 0,9% so với cùng kỳ và tính lỹ kế đến cuối quý 2/2019, thị phần tăng 0,4%.

 Bên cạnh đó mảng xuất khẩu cũng tăng trưởng nhờ mở rộng ASEAN. Vào tháng 9/2019, VNM cũng đã chính thức xuất khẩu vào thị trường tiềm năng là Trung Quốc và nhận được nhiều phản hồi tích cực.

knsl - vnm.png

  Khả năng sinh lời của VNM được đánh giá rất tốt, vượt xa so với bình quân ngành.

  Sức khỏe tài chính của VNM cũng được đánh giá tương đối tốt dù tỷ lệ Nợ/Tổng tài sản có xu hướng tăng nhưng vẫn ở tỷ lệ có thể kiểm soát, khả năng thanh toán lãi vay giảm nhưng vẫn ở mức cao, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cũng đang có xu hướng giảm, quý 3/2019 đạt 1.83 lần nằm sát mức an toàn.

vnm - dinhgia.png

  Với tình hình kinh doanh có những chuyển biến tích cực, sức khỏe tài chính ổn định thì cổ phiếu của VNM đang được định giá tương đối cao, gấp gần 8 lần so với giá trị sổ sách, tuy nhiên so với mặt bằng chung của ngành và thị tường thì cổ phiếu này vẫn đang bị định giá thấp. Nguyên nhân là do tăng trưởng EPS của VNM gần đây rất thấp, thậm chí âm, do đó khó mà có thể khiến nhà đầu tư bỏ thêm tiền cho cổ phiếu này.

vnm tangtruong.png

  Tính từ giữa tháng 8/2019 đến nay, giá cổ phiếu VNM cũng có những tín hiệu tích cực khi tạo một xu hướng tăng mới từ 115.000 đồng/cổ phiếu lên 134.000 đồng/cổ phiếu.

  Tuy nhiên, trong 8 phiên gần đây thì giá cổ phiếu giảm mạnh, cứ 2 phiên giảm lại có 1 phiên tăng và đáy sau thì thấp hơn đáy trước nên rất có thể giá cổ phiếu VNM vẫn sẽ tiếp tục giảm trong ngắn hạn. Do chưa có một xu hướng mới được xác định rõ ràng nên nhà đầu tư cần cân nhắc khi đầu tư vào VNM ở thời điểm này.

 (Các ý kiến nêu trong bài phân tích ở trên hoàn toàn dựa trên quan điểm cá nhân.)

  

  

  

 tag: 2016 2015 2014 2012 bảng 2013 thuyết minh phan