Cải cách tư pháp là gì – Chiến lược cải cách tư pháp

Cải cách tư pháp là gì

 Cải cách tư pháp chính là quá trình đề cao quyền con người quyền công dân trong hoạt động tư pháp, coi con người là chủ thể là nguồn lực chủ yếu và là mục đích của sự phát triển

CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP

 I. Tình hình quán triệt, triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp

 Sau khi Chiến lược cải cách tư pháp được ban hành, Bộ Chính trị (khóa IX) đã chỉ đạo tổ chức hội nghị toàn quốc (gồm lãnh đạo các tỉnh ủy, thành ủy và đại diện cấp ủy, tổ chức đảng, thủ trưởng các cơ quan, tổ chức có liên quan ở Trung ương) để quán triệt, triển khai thực hiện. Phần lớn đại biểu tham dự hội nghị đều đánh giá cao nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp. Cho rằng: Chiến lược cải cách tư pháp đã kế thừa, phát huy những thành tựu của Nghị quyết số 08-NQ/TW; tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương, đường lối về cải cách tư pháp nêu trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; cập nhật được yếu tố tiến bộ của nền tư pháp các nước phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhiều đại biểu bày tỏ sự phấn khởi, tin tưởng Chiến lược cải cách tư pháp sẽ đem lại những chuyển biến tích cực trong hoạt động tư pháp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

 Căn cứ vào mục tiêu, quan điểm, phương hướng và nhiệm vụ của Chiến lược cải cách tư pháp, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành các chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp của từng nhiệm kỳ và hàng năm; chỉ đạo xây dựng nhiều đề án để triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể; định kỳ báo cáo tình hình, kết quả với Bộ Chính trị. Cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp ở Trung ương (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an) và các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương đều thành lập Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp2 để chỉ đạo thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp tại cơ quan, tổ chức, địa phương mình. Phần lớn Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp các Bộ, ngành, địa phương đều xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện và báo cáo kết quả với cấp ủy, tổ chức đảng cùng cấp và Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương.

 Bộ Chính trị đã tổ chức nhiều phiên họp nghe báo cáo, cho ý kiến chỉ đạo việc triển khai thực hiện và sơ kết việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong từng giai đoạn (tiến hành sơ kết 3 năm và sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp). Trong nhiệm kỳ 2006-2011, Bộ Chính trị khóa X đã thông qua Đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp3; chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật thể chế hoá các chủ trương, chính sách về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp và hoạt động bổ trợ tư pháp. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XI (năm 2011) đến nay, Bộ Chính trị đã có 05 phiên họp chuyên đề về cải cách tư pháp, cho ý kiến về một số vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số nhiệm vụ quan trọng ý kiến khác nhau chưa được xem xét, kết luận cụ thể, chậm thực hiện.

 II. Về hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp

 Từ tháng 6/2005 đến tháng 6/2013, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành mới và sửa đổi, bổ sung 63 luật, pháp lệnh, nghị quyết về các lĩnh vực hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp và tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp. Chính phủ, các cơ quan tư pháp Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện.

 1. Trong lĩnh vực hình sự

 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã bãi bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh, thay đổi biện pháp thi hành án tử hình, quy định rõ việc không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với một số tội, áp dụng mức án nhẹ hơn đối với người chưa thành niên phạm tội (so với người đã thành niên); không áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội; bỏ một số tội danh ra khỏi Bộ luật hình sự.4

 Đồng thời, đã điều chỉnh mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm về kinh tế và chức vụ. Bổ sung quy định về một số tội phạm mới như: khủng bố, tài trợ khủng bố, mua bán người, rửa tiền, chứng khoán, môi trường, công nghệ thông tin (13 tội).5 Việc sửa đổi các quy định nêu trên đã thể chế đúng đắn chủ trương của Đảng nhằm tăng tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Luật đặc xá (năm 2007) được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đặc xá, khoan hồng những người cải tạo tốt, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người bị kết án phạt tù.

 2. Trong lĩnh vực dân sự

 Đã sửa đổi Bộ luật dân sự và ban hành một số văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại nhằm điều chỉnh các quan hệ theo hướng: tôn trọng quyền tự do kinh doanh, xác lập các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại; hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào các quan hệ này; hình thành cơ chế pháp lý bảo đảm thực thi tốt hơn quyền của các chủ thể trong giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại thúc đẩy các quan hệ phát triển lành mạnh; hoàn thiện các quy định pháp luật, bảo vệ tốt hơn các quyền về danh dự, nhân phẩm, uy tín, tính mạng, sức khỏe, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

 3. Trong lĩnh vực tố tụng tư pháp

 Đã ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện nhiều văn bản pháp luật về tố tụng6. Theo đó, đã phân định một bước thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng, tạo điều kiện cho thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên chủ động thực thi nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật 7; quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị và trách nhiệm của người ra kháng nghị theo hướng hạn chế người có thẩm quyền kháng nghị, xác định rõ chỉ có chánh án tòa án, viện trưởng viện kiểm sát mới có quyền ra quyết định kháng nghị; quy định thời hạn kháng nghị dài hơn theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quy định chặt chẽ việc nộp đơn, thụ lý và xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng đảm bảo quyền nộp đơn của người dân và đề cao trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; bổ sung thẩm quyền xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

 Thể chế hóa bước đầu chủ trương “xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”: Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định 01 chương về việc xét xử rút gọn một số trường hợp cụ thể với thời gian điều tra, truy tố, xét xử ngắn hơn thủ tục bình thường; Bộ luật tố tụng dân sự quy định thủ tục xét xử rút gọn đối với một số loại việc dân sự bởi 01 thẩm phán, không có Hội thẩm nhân dân tham gia. Chủ trương khuyến khích giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài đã được thể chế trong Luật Trọng tài thương mại với các quy định cụ thể, chặt chẽ về phạm vi giải quyết, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc thụ lý, thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; hiệu lực pháp luật của quyết định trọng tài; cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài. Luật Hòa giải ở cơ sở được ban hành đã quy định chặt chẽ về nguyên tắc, thủ tục, trình tự, tạo điều kiện cho người dân giải quyết các tranh chấp thông qua hòa giải cơ sở, góp phần giảm số vụ, việc tại tòa án nhân dân.

 Thể chế hóa chủ trương mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân đối với các khiếu kiện hành chính: Luật tố tụng hành chính (năm 2010) đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính của tòa án; quy định điều kiện khởi kiện, thủ tục giải quyết vụ án rõ ràng, cụ thể hơn so với trước đây; tạo điều kiện để công dân được lựa chọn khởi kiện hoặc khiếu nại các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan, công chức hành chính; bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án. Luật xử lý vi phạm hành chính (năm 2012) đã chuyển giao thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp: đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục và cơ sở cai nghiện bắt buộc từ uỷ ban nhân dân sang toà án nhân dân. Đây là một tiến bộ mới, bảo đảm khách quan, minh bạch, đúng pháp luật, bảo vệ quyền con người. Chủ trương tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân cấp huyện cũng đã được Quốc hội thể chế hóa và thực hiện thành công vào năm 2009 (từ 2004 – 2009). Một số tòa án nhân dân địa phương đã chú trọng việc đổi mới thủ tục hành chính trong hoạt động của mình góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có việc đến tòa án.

 Nhìn chung, việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và tố tụng tư pháp đã được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều chủ trương chưa được thể chế hóa đầy đủ, kịp thời như: tăng cường tranh tụng tại phiên tòa; phân định thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng; giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ; quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam; hoàn thiện cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn; phát triển một số loại hình dịch vụ tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ; xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, các tổ chức đoàn thể trong giám sát hoạt động tư pháp… Việc chậm trễ này có nguyên nhân chủ quan của các bộ, ngành chưa kịp thời nghiên cứu đề xuất, nhưng cũng có nguyên nhân khác là do phải chờ sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

 III. Về việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp

 1. Đối với Tòa án nhân dân

 Bỏ thẩm quyền xét xử sơ chung thẩm để đảm bảo thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử; tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện; tăng cường và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa; mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, đổi mới thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án. Tòa án nhân dân được xác định có vị trí trung tâm của hoạt động tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp; quy định bổ nhiệm thẩm phán theo ngạch sơ cấp, trung cấp thay cho việc bổ nhiệm theo cấp hành chính; áp dụng chính sách tiền lương và phụ cấp nghề, phụ cấp thâm niên cho các chức danh tư pháp ở tòa án; thực hiện lộ trình đổi mới về tổ chức hệ thống tòa án quân sự theo hướng giảm bớt đầu mối các tòa quân sự khu vực và quân, binh chủng; tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân từng bước được hoàn thiện, chất lượng xét xử được nâng lên, hạn chế việc xét xử oan, sai. Tòa án nhân dân tối cao đã tập trung nhiều hơn cho công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có tiến bộ. Giao Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp của ngành Tòa án; công tác đào tạo, bồi dưỡng được quan tâm, tăng cường; xây dựng được cơ sở vật chất cho Trường đào tạo cán bộ Tòa án (chuẩn bị nâng cấp thành Học viện Tòa án) khang trang. Việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện đã giúp giải quyết được tình trạng tồn đọng án ở tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Đã chỉ đạo xây dựng phương án tổ chức hệ thống tòa án nhân dân theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính (Nghị quyết số 49-NQ/TW) và tổ chức tòa án gồm 4 cấp (Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010). Việc tổ chức tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực do còn nhiều ý kiến khác nhau nên Bộ Chính trị giao Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm một số vấn đề (Thông báo số 122-TB/TW ngày 25-2-2013). Ban Chỉ đạo đã tổ chức nghiên cứu và có báo cáo riêng về những vấn đề do Bộ Chính trị yêu cầu (Báo cáo số 32-BC/CCTP, ngày 30-12-2013).

 Một số nhiệm vụ như: phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp…; đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, đảm bảo công khai, dân chủ, nghiêm minh; đổi mới mô hình tố tụng, nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa đang được Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp nghiên cứu xây dựng đề án. Quân ủy Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nhiều đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quân đội theo định hướng đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW.

 Thực hiện nhiệm vụ nêu trên còn một số hạn chế sau: Việc xác định tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm chưa được nghiên cứu và xác định đầy đủ, chưa có cơ chế đảm bảo vai trò trung tâm của tòa án; tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá của cải cách tư pháp nhưng chưa được nghiên cứu xây dựng quy trình, cơ chế cụ thể; nhận thức của cán bộ tư pháp về tranh tụng chưa đầy đủ, toàn diện; việc tranh tụng còn hình thức, hiệu quả chưa cao. Vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân và mối quan hệ giữa Hội thẩm nhân dân với Thẩm phán trong quá trình xét xử các vụ án chưa được quy định cụ thể; hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn mang tính hình thức, có xu hướng chuyên nghiệp hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân.

 2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân

 Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hoàn thành việc nghiên cứu, xây dựng Đề án “nghiên cứu việc chuyển viện kiểm sát thành viện công tố” báo cáo Ban Chỉ đạo trình Bộ Chính trị kết luận: Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (được Hiến pháp năm 2013 quy định); Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức tòa án nhân dân. Đề án về mô hình tố tụng hình sự đã được Ban Chỉ đạo cho ý kiến và thống nhất đề nghị Bộ Chính trị cho áp dụng mô hình tố tụng kết hợp giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng.

 Thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong giai đoạn điều tra, viện kiểm sát các cấp đã phân công kiểm sát viên bám sát quá trình điều tra vụ án; kiểm sát chặt chẽ hơn việc thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra. Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết 37/2012/NQ-QH13 của Quốc hội, năm 2013 hoạt động của viện kiểm sát nhân dân có những chuyển biến đáng kể, đã giải quyết được nhiều vướng mắc, hạn chế trong hoạt động công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhiều năm qua; bám sát quá trình điều tra để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, đẩy nhanh tiến độ điều tra vụ án, hạn chế tình trạng điều tra kéo dài. Công tác xét, phê chuẩn việc khởi tố bị can, bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, tạm giam bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật. Số người bị bắt, tạm giữ chuyển khởi tố hình sự đạt tỷ lệ cao8. Đã khắc phục phần lớn việc lạm dụng bắt khẩn cấp và hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự; hạn chế đến mức thấp nhất việc bắt oan, sai và tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đẩy nhanh tiến độ giải quyết án; giảm nhiều trường hợp khởi tố, điều tra sau đó phải đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do bị can không phạm tội. Số vụ án do viện kiểm sát truy tố đạt tỷ lệ cao so với tổng số vụ án đã kết thúc điều tra.9

 Viện kiểm sát nhân dân đã phối hợp với tòa án nhân dân tổ chức nhiều phiên tòa mẫu; Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố tại tòa đã tích cực, chủ động tham gia tranh luận với luật sư và các chủ thể khác nhằm làm rõ chứng cứ luận tội, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của tòa án. Thông qua hoạt động kiểm sát xét xử, viện kiểm sát nhân dân đã phát hiện kịp thời các bản án, quyết định của toà án có vi phạm để kháng nghị, kiến nghị. Các kháng nghị, kiến nghị của viện kiểm sát nhân dân được tòa án nhân dân chấp nhận đạt tỷ lệ cao.10

 Thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, viện kiểm sát nhân dân đã tập trung kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng căn cứ tạm giữ, tạm giam; phân loại giam, giữ, quản lý, giáo dục người chấp hành án phạt tù; phối hợp với các ngành có liên quan thực hiện tốt công tác tư vấn đặc xá. Đồng thời, chú trọng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quản lý, giáo dục người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ…; áp dụng nhiều biện pháp nhằm tăng cường công tác kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự, kịp thời phát hiện những sai sót và yêu cầu khắc phục, hạn chế những thiệt hại của đương sự. Viện kiểm sát quân sự đã được kiện toàn tổ chức, đảm bảo tập trung nguồn nhân lực, tiết kiệm ngân sách nhà nước.

 Tuy nhiên, quá trình thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện tổ chức, bộ máy của viện kiểm sát nhân dân vẫn còn một số hạn chế, đó là: Chưa phân công rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được giao thực hành quyền công tố và Kiểm sát viên được giao kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng của viện kiểm sát nhân dân, theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho Kiểm sát viên để họ chủ động trong việc thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và quyết định tố tụng của mình chậm được nghiên cứu và cụ thể hóa. Chưa có cơ chế kiểm tra từ bên ngoài đối với các hoạt động công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, hoạt động điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

 3.3. Đối với các cơ quan điều tra

 Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan điều tra được tổ chức ở 3 bộ, ngành với 5 hệ thống11. Ngoài ra còn có các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra12.

 Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, với mô hình tổ chức hiện nay có ưu điểm là: Được tổ chức chuyên sâu theo nhóm tội phạm, kết hợp hoạt động trinh sát với hoạt động điều tra, khắc phục được tình trạng án tồn đọng kéo dài; tập trung nhiệm vụ điều tra cho cơ sở để cơ quan điều tra cấp trên có điều kiện tập trung lực lượng, phương tiện điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, liên tỉnh, xuyên quốc gia; huy động được đầy đủ và nhanh nhất lực lượng, phương tiện khi có yêu cầu điều tra vụ án, đáp ứng tốt nhất yêu cầu khẩn trương, cấp bách của hoạt động điều tra. Cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn, phát hiện tội phạm.

 Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã từng bước được củng cố, kiện toàn và tăng cường. Hoạt động điều tra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao được chú trọng; việc xử lý tin báo, tố giác về tội phạm do Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có tiến bộ. Tiến độ điều tra các vụ án cơ bản được đảm bảo, chất lượng điều tra được nâng lên.

 Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân được tổ chức theo mô hình: Hệ thống cơ quan điều tra hình sự (theo 3 cấp); hệ thống cơ quan an ninh điều tra (theo 2 cấp). Việc thực hiện theo mô hình trên trong thời gian qua đã thể hiện được tính ưu việt, hợp lý, phù hợp với tổ chức quân đội, do vậy số lượng công việc phải giải quyết được phân bố tương đối đồng đều ở các tòa án quân sự khu vực, viện kiểm sát quân sự khu vực; công tác quản lý, lãnh đạo đối với cơ quan điều tra có nhiều thuận lợi hơn.

 Kết quả rõ nét nhất trong hoạt động điều tra là tỷ lệ án kết thúc điều tra tăng lên rõ rệt, đạt trên 80% (trước đây chỉ đạt hơn 50%)13. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố vụ án, khởi tố bị can cơ bản được thực hiện đúng quy định của pháp luật; khắc phục hiện tượng lạm dụng bắt khẩn cấp, “hình sự hoá” các quan hệ dân sự, kinh tế và bắt oan, sai; các trường hợp đình chỉ điều tra ngày càng giảm.

 Tuy nhiên, mô hình cơ quan điều tra hiện nay cũng bộc lộ một số hạn chế như: (1) còn nhiều đơn vị ở các bộ, ngành khác nhau cùng thực hiện nhiệm vụ điều tra tố tụng; chưa xác định rõ cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động điều tra; (2) việc tổ chức cơ quan điều tra ở một số nơi chưa hợp lý, nhiều cơ quan điều tra số lượng án ít, nhưng vẫn phải tổ chức đầy đủ bộ máy dẫn đến lãng phí về nhân lực và ngân sách; (3) chưa tách bạch rõ nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm và điều tra tố tụng; việc kết hợp giữa hoạt động trinh sát và điều tra tố tụng chưa đúng yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp; (4) Viện Kiểm sát nhân dân tối cao vừa làm nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp vừa có cơ quan điều tra chuyên trách nhưng không có cơ chế kiểm tra từ bên ngoài nên khó đảm bảo tính khách quan trong hoạt động điều tra; chất lượng điều tra của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế, hiệu quả chưa cao; (5) việc giao cho nhiều cơ quan khác thực hiện một số hoạt động điều tra với quyền hạn lớn (được khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra chuyển viện kiểm sát truy tố) dẫn đến có nhiều cơ quan có thẩm quyền tố tụng.

 Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp và Kết luận số 79-KL/TW, Ban Chỉ đạo giao Đảng ủy Công an Trung ương chủ trì xây dựng Đề án tổ chức lại hệ thống cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, trong đó đưa ra 3 phương án. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của từng phương án, Đề án đã lựa chọn phương án 1 cho mô hình tổ chức điều tra trong Công an nhân dân. Ban Chỉ đạo đã tổ chức 2 phiên họp cho ý kiến về Đề án. Tại phiên họp ngày 05-12-2013, Trưởng ban Ban Chỉ đạo đã kết luận, giao Đảng ủy Công an Trung ương tiếp tục hoàn thiện Đề án theo ý kiến của các thành viên Ban Chỉ đạo để trình Bộ Chính trị xem xét, kết luận (Tờ trình và Đề án kèm theo).

 3.4. Đối với các cơ quan thi hành án

 Hệ thống các cơ quan thi hành án và quản lý thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, hành chính tiếp tục được kiện toàn theo hướng xác định rõ hơn nội dung quản lý nhà nước, mô hình tổ chức, bộ máy, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan trong lĩnh vực thi hành án. Luật thi hành án hình sự năm 2010 đã thể chế hóa được nhiệm vụ của uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc thi hành các hình phạt ngoài tù và trách nhiệm của các cơ quan công an, quân đội giúp ủy ban nhân dân các cấp thi hành các hình phạt này. Luật thi hành án dân sự năm 2008, Luật tố tụng hành chính năm 2010 đã quy định rõ hệ thống thi hành án dân sự, xác định vị trí, vai trò, trách nhiệm của cơ quan thi hành án, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hành chính. Triển khai thực hiện chủ trương từng bước xã hội hóa một số công việc về thi hành án, đã thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh. Thực tiễn hoạt động của các văn phòng thừa phát lại bước đầu đã đạt được kết quả, phù hợp với yêu cầu của xã hội. Ngoài việc củng cố kiện toàn tổ chức các cơ quan thi hành án, lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp được thành lập cũng đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ hoạt động xét xử, thi hành án.

 Công tác thi hành án và quản lý thi hành án phạt tù có nhiều chuyển biến tích cực, công tác dạy nghề được quan tâm; các trại giam, trại tạm giam được bảo vệ an toàn. Việc thi hành án tử hình đã đổi mới theo hướng nhân đạo hơn, thông qua việc thay thế hình thức xử bắn bằng hình thức tiêm thuốc. Việc thi hành án treo, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được giao cho cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện tiếp nhận để chuyển giao cho ủy ban nhân dân cấp xã thi hành. Thi hành hình phạt trục xuất giao cho cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh thực hiện nên việc quản lý tập trung hơn. Các quyết định áp dụng biện pháp tư pháp trước đây không giao cho cơ quan nào theo dõi, nay giao cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện quản lý, theo dõi. Việc tái hòa nhập cộng đồng được quan tâm thực hiện, thu được những kết quả tích cực.14 Việc thực hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng đối với người phạm tội được tiến hành công khai, khách quan, đúng quy trình, thủ tục.

 Kết quả thi hành án dân sự (kể cả trong Quân đội) có chuyển biến tích cực, năm sau cao hơn năm trước cả về số việc, số tiền thu được và tỷ lệ thi hành xong trên số có điều kiện thi hành15. Từ khi Luật tố tụng hành chính năm 2010 có hiệu lực, việc thi hành án hành chính đã đạt được một số kết quả nhất định16.

 Trong quá trình thực hiện chủ trương chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án, do còn nhiều ý kiến khác nhau nên thực hiện chưa có kết quả. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo đã tổ chức nghiên cứu xây dựng Đề án “Về thực hiện việc quản lý công tác thi hành án”, hướng dẫn các bộ, ngành, cấp ủy, tổ chức đảng ở trung ương và các tỉnh uỷ, thành ủy trong phạm vi trách nhiệm của mình tiến hành tổng kết và báo cáo kết quả 20 năm công tác thi hành án (1993-2013). Đề án được Ban Chỉ đạo cho ý kiến tại phiên họp ngày 09-11-2013 để hoàn thiện trình Bộ Chính trị cùng với Báo cáo kết quả tổng kết Nghị quyết 49-NQ/TW… (Báo cáo số 33-BC/CCTP, ngày 30-12-2013). Công tác thi hành án và quản lý thi hành án vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc, cụ thể là: (1) Chưa có cơ chế đảm bảo vai trò của tòa án nhân dân trong lĩnh vực thi hành án, giữa hoạt động xét xử với thi hành án có sự cắt khúc, tách rời. Vì vậy, tòa án nhân dân không nắm được tình hình và kết quả thi hành án, không phát hiện kịp thời và chưa gắn trách nhiệm đối với những hạn chế, sai sót của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. (2) Chưa phân công đầy đủ thẩm quyền và trách nhiệm cho ủy ban nhân dân địa phương thực hiện việc quản lý công tác thi hành án đã dẫn đến những vướng mắc trong thực tiễn quản lý, tổ chức thi hành án. Công tác quản lý, phối hợp của Bộ Tư pháp với địa phương chưa thật sự nhịp nhàng; thông tin hai chiều chưa đầy đủ, kịp thời, công tác đánh giá, bố trí cán bộ chủ chốt của cơ quan thi hành án dân sự (nhất là của người đứng đầu) trong một số trường hợp chưa thống nhất do việc phân công chưa hợp lý nên nhiều nơi cấp ủy, chính quyền địa phương, coi nhiệm vụ thi hành án dân sự, hành chính là nhiệm vụ riêng của ngành Tư pháp; mức độ quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ công tác thi hành án dân sự chưa nhiều. (3) Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án hình sự, dân sự thuộc Bộ Quốc phòng còn phân tán thiếu tập trung, thống nhất. Việc tổ chức các trại giam trong quân đội nhân dân còn dàn trải, chưa tiết kiệm. (4) Chưa xác định rõ vị trí, tính chất của hoạt động thi hành án nên chưa phân định rõ phạm vi thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong công tác kiểm sát, thanh tra, kiểm tra, dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát đối với công tác thi hành án.

 IV. Về việc hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp

 4.1. Đối với luật sư

 Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức, hoạt động của luật sư17 và các tổ chức hành nghề, tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư đã được thành lập ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ở Trung ương, Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập, đi vào hoạt động có hiệu quả bước đầu18. Đội ngũ luật sư được đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nhanh về số lượng; trình độ năng lực được nâng lên.19 Cơ chế trách nhiệm của luật sư và việc phát huy vai trò tự quản của các đoàn luật sư, Liên đoàn luật sư từng bước được hoàn thiện. Các vụ việc được luật sư tư vấn, tham gia bào chữa và trợ giúp pháp lý ngày càng tăng20. Nhiều luật sư đã tích cực tranh tụng, tạo không khí dân chủ tại phiên tòa. Công tác quản lý nhà nước về luật sư được quan tâm thực hiện và có một số tiến bộ, thẩm quyền của luật sư được mở rộng, các cơ quan tư pháp cũng đã cộng tác tốt để luật sư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo quyền được bào chữa của bị can, bị cáo. Vai trò của luật sư từng bước được khẳng định trong đời sống chính trị, pháp lý của đất nước.

 4.2. Đối với giám định tư pháp

 Đã ban hành Luật giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành, thể chế hóa bước đầu chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp21 tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc kiện toàn, phát triển các tổ chức giám định tư pháp trong và ngoài nhà nước. Hệ thống tổ chức giám định tư pháp từng bước được kiện toàn. Ở Trung ương, hiện có 4 tổ chức giám định tư pháp là: Viện Pháp y quốc gia, Viện Pháp y tâm thần Trung ương thuộc Bộ Y tế, Viện Pháp y Quân đội thuộc Bộ Quốc phòng và Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Bộ Y tế đang xây dựng đề án thành lập các trung tâm pháp y tâm thần khu vực. Ở các địa phương đang thành lập các trung tâm giám định pháp y thuộc Sở Y tế, Phòng giám định pháp y thuộc bệnh viện đa khoa cấp tỉnh. Các tổ chức giám định kỹ thuật hình sự của công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được kiện toàn, tiếp tục hoạt động nền nếp. Nhìn chung, hiệu quả hoạt động của các tổ chức giám định từng bước được nâng lên, cơ bản đáp ứng yêu cầu hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và nhu cầu khác của xã hội. Cơ sở vật chất, trang – thiết bị kỹ thuật cho các tổ chức giám định tư pháp Nhà nước đã được quan tâm đầu tư từng bước.

 4.3. Đối với công chứng

 Luật công chứng năm 2006 có hiệu lực thi hành cơ bản khắc phục những vướng mắc trong hoạt động công chứng, chứng thực; phân biệt rõ giữa công chứng và chứng thực; quy định rõ giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng được xã hội đồng tình cao, giảm tải được số lượng vụ việc cho các phòng công chứng nhà nước, tạo điều kiện để người dân có thêm sự lựa chọn khi có nhu cầu công chứng. Tổ chức hành nghề công chứng và các công chứng viên có sự phát triển nhanh về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng22. Cơ chế phát huy tính tự quản trong hoạt động công chứng đã được hoàn thiện một bước. Ở một số địa phương đã thành lập hội công chứng; Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Liên minh công chứng quốc tế (UINL).

 Thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện chế định bổ trợ tư pháp vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc. Đối với luật sư, việc kiện toàn tổ chức và phát triển luật sư của một số đoàn luật sư còn chậm; đội ngũ luật sư phát triển nhanh nhưng chưa đồng đều, thiếu bền vững; trình độ năng lực, kinh nghiệm, kiến thức chuyên sâu và kỹ năng nghề nghiệp chưa thực sự đáp ứng kịp nhu cầu của xã hội và yêu cầu cải cách tư pháp. Trong đó, có nguyên nhân là chưa có cơ chế đảm bảo phát triển luật sư ổn định, luật sư chưa có cơ hội tham gia nhiều hơn vào hoạt động tố tụng. Hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tư vấn, trợ giúp pháp lý trong các vụ án hình sự thấp; chưa có đội ngũ luật sư giỏi để có thể tham gia có hiệu quả các tranh chấp quốc tế. Còn một bộ phận luật sư chưa thực sự đề cao tinh thần trách nhiệm và ý thức bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân; chưa thực hiện nghiêm túc quy tắc đạo đức nghề nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của luật sư. Một số cán bộ tư pháp chưa tạo điều kiện thuận lợi để luật sư tham gia tố tụng. Đối với giám định tư pháp, một số nhiệm vụ nêu trong Chiến lược cải cách tư pháp như: “quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định; ban hành quy chuẩn giám định trong từng lĩnh vực, xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định…” chưa được thực hiện đầy đủ, đồng bộ. Việc đầu tư kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ giám định chưa đáp ứng yêu cầu của công tác giám định. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, giám định viên chuyên trách làm việc trong tổ chức giám định nhà nước còn thiếu, nhất là trong lĩnh vực pháp y và pháp y tâm thần. Việc kiện toàn tổ chức giám định pháp y ở địa phương theo quy định của Luật giám định tư pháp còn chậm. Năng lực giám định tư pháp trong các lĩnh vực về tài chính, ngân hàng, xây dựng, chuyên ngành kỹ thuật trong nhiều vụ án lớn còn hạn chế, thời gian kéo dài, kết luận thiếu rõ ràng… làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động tố tụng. Năng lực của các cơ quan tố tụng trong việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định còn yếu, lúng túng, đôi khi đưa ra những yêu cầu không hợp lý. Hoạt động giám định tư pháp còn nhiều hạn chế, chưa phục vụ kịp thời các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Chế độ, chính sách cho người giám định chưa tương xứng với trách nhiệm. Việc giám định trong lĩnh vực tài chính, công trình xây dựng… thường bị kéo dài đã ảnh hưởng đến kết quả, tiến độ xử lý các vụ án, nhất là án kinh tế, tham nhũng. Công tác quản lý nhà nước về tổ chức, hoạt động luật sư, công chứng, giám định còn một số mặt yếu kém, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên. Hoạt động công chứng còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro (nhất là công chứng tư nhân), nhưng chưa có cơ chế bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi ích cho cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến hoạt động công chứng.

 V. Về việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh

 5.1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

 Các trường đào tạo cử nhân luật, đào tạo nghề, bồi dưỡng nghiệp vụ về tư pháp đã phát triển nhanh về số lượng, đến nay đã có gần 50 cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật và đào tạo nghề, bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các đề án: Xây dựng Trường Đại học luật Hà Nội và Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật; Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp; thành lập Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội. Các trường đã đào tạo số lượng lớn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ luật, thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư, chấp hành viên, công chứng viên… bước đầu đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa trình độ cán bộ các cơ quan tư pháp23. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đã cử nhiều cán bộ, công chức đi đào tạo trên đại học, bồi dưỡng ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ tại nước ngoài theo các chương trình, đề án của Nhà nước và các dự án quốc tế24.

 5.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ

 Tính đến năm 2013 ngành Tòa án nhân dân có 4.957 thẩm phán các cấp trên tổng số 13.624 cán bộ, công chức; ngành Kiểm sát nhân dân có 10.424 kiểm sát viên các cấp và 35 điều tra viên cao cấp trên tổng số 15.860 cán bộ, công chức. Hầu hết đã đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa trình độ cán bộ có chức danh tư pháp. Cơ quan điều tra thuộc lực lượng Công an nhân dân có 32.592 cán bộ, chiến sỹ làm công tác điều tra, trong đó có 13.321 Điều tra viên có trình độ Đại học An ninh hoặc Đại học Cảnh sát hoặc Đại học Luật trở lên. Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng có 673 người, gồm Điều tra viên các cấp và Trợ lý điều tra hình sự, 100% có trình độ đại học, cao đẳng trở lên. Các cơ quan thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an có 39.319 người, gồm cán bộ, chiến sỹ công tác tại cơ quan thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, hạ sỹ quan, chiến sỹ phục vụ có thời hạn. Hệ thống thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có 8.989 người, hệ thống thi hành án dân sự trong Quân đội nhân dân có 114 người, 100% Chấp hành viên và Thẩm tra viên có trình độ cử nhân Luật trở lên. Đội ngũ luật sư hiện nay có 8.500 người hành nghề luật sư và 3.500 người tập sự. Đội ngũ giám định viên tư pháp có 4.095 người và 990 người giám định tư pháp theo vụ việc. Đội ngũ công chứng viên hiện có 1.327 người đang hành nghề. Các chức danh bổ trợ tư pháp đều có trình độ cử nhân luật trở lên và được đào tạo nghề trước khi bổ nhiệm.

 Hạn chế, vướng mắc: Công tác đào tạo cán bộ pháp luật, đào tạo nghề cho các chức danh tư pháp phân tán, khó thực hiện được mục tiêu nâng mặt bằng chất lượng cán bộ tư pháp và phục vụ nhiệm vụ nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; công tác đào tạo, bồi dưỡng định kỳ, thường xuyên, cập nhật các kiến thức mới và chuyên sâu theo từng lĩnh vực cho cán bộ có chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức, thực hiện chưa có nền nếp, ổn định. Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư chưa được trang bị kiến thức, kỹ năng tranh tụng và điều hành phiên tòa tranh tụng. Việc xây dựng cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp mới chỉ thực hiện đối với Chấp hành viên ngành Thi hành án dân sự .

 VI. Về việc hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp

 6.1. Về công tác giám sát của các cơ quan dân cử

 Thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp, Quốc hội đã nghiên cứu xây dựng một số đề án, ban hành, sửa đổi, bổ sung một số luật, nghị quyết có liên quan25. Nhằm tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát việc thi hành pháp luật trong hoạt động tư pháp, Quốc hội đã thành lập Ủy ban Tư pháp; Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã kiện toàn ban pháp chế để giúp Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ giám sát các cơ quan tư pháp.

 Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đối với các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được đổi mới về phương thức, tăng cường về số lần và nâng cao chất lượng. Hoạt động xem xét các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chính phủ về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án và phòng, chống tham nhũng ngày càng được quan tâm. Tại kỳ họp thứ 4 và thứ 6 nhiệm kỳ Khóa XIII, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23-11-2012 “về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm sát nhân dân, của toà án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013” và Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27-11-2013 “về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm” là một bước phát triển mới trong công tác giám sát của Quốc hội.

 Ngoài ra, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn tổ chức các phiên điều trần nghe báo cáo giải trình, xem xét các báo cáo kết quả giám sát, tiến hành giám sát và ban hành Nghị quyết về kết quả giám sát; đồng thời, tăng cường công tác giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. Các Đoàn đại biểu Quốc hội đã tổ chức nhiều đoàn giám sát, khảo sát về công tác tư pháp và việc giải quyết một số vụ án khiếu nại bức xúc, kéo dài ở địa phương; kiến nghị, yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết hoặc tiến hành giám sát trực tiếp, góp phần khắc phục một số hạn chế, từng bước chấn chỉnh những sai sót trong hoạt động của các cơ quan tư pháp ở địa phương.

 Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đối với hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp ở địa phương được quan tâm thực hiện có chuyển biến bước đầu; một số địa phương đã đề ra các giải pháp hỗ trợ các cơ quan tư pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

 6.2. Về công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên

 Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận đã tích cực tham gia và có nhiều đóng góp vào các hoạt động: tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên; giới thiệu hội thẩm nhân dân; cử bào chữa viên nhân dân; tham gia công tác đặc xá, giáo dục, cảm hóa người phạm tội; giúp đỡ người đã chấp hành xong hình phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng; tiếp nhận và đề nghị giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến hoạt động tư pháp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.26 Các phương tiện thông tin đại chúng đã chủ động, tích cực hơn trong việc tuyên truyền, đưa thông tin về hoạt động tư pháp; đã có những phóng sự điều tra, đưa tin góp phần làm sáng tỏ nhiều vụ, việc sai phạm, thiếu sót trong hoạt động tư pháp.

 Hạn chế, vướng mắc chủ yếu trong công tác giám sát: chưa tiến hành thường xuyên các hoạt động giám sát theo chuyên đề; việc tổ chức giám sát còn mang tính hình thức, chủ yếu dựa vào báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát; chưa đầu tư thời gian nghiên cứu thực tế, tài liệu, thông tin nên báo cáo kết luận giám sát còn chung chung, hiệu lực, hiệu quả không cao. Việc theo dõi sau giám sát còn buông lỏng, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị. Công tác giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh ít được quan tâm; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp chưa có nền nếp, hiệu quả chưa cao. Việc giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động các cơ quan tư pháp tại kỳ họp còn nặng về hình thức, phần lớn các địa phương chưa thực hiện việc ban hành nghị quyết riêng về hoạt động tư pháp. Hạn chế nêu trên có nguyên nhân là đại biểu hội đồng nhân dân hầu hết đều kiêm nhiệm, nhiều đại biểu có tâm lý nể nang, ngại va chạm nên chưa phát huy vai trò trong giám sát, chất vấn. Hội đồng nhân dân cấp huyện không có ban chuyên môn, đại biểu lại được bầu theo cơ cấu nên khó có điều kiện thực hiện được việc giám sát công tác tư pháp. Các quy định về giám sát thiếu cụ thể, chưa có cơ chế động viên nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tham gia giám sát nên chưa phát huy được vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

 VII. Về việc tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp

 Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW, Quốc hội và các cơ quan có liên quan đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới một số văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp. Trên cơ sở đó đã tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tư pháp tiến hành đàm phán, ký kết, thực hiện các thỏa thuận và cam kết quốc tế; kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường đào tạo cán bộ; cử nhiều đoàn đại biểu tham gia các diễn đàn quốc tế về tư pháp và tổ chức các đoàn đi nghiên cứu, học tập kinh nghiệm các nước có nền tư pháp tiên tiến. Thường xuyên chỉ đạo việc đàm phán, ký kết, tổ chức thực hiện nghiêm túc các điều ước, cam kết, thỏa thuận quốc tế. Tranh thủ sự hỗ trợ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế cho công tác nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Thông qua đó đã tiếp cận, thu thập được nhiều thông tin, kinh nghiệm bổ ích, góp phần hoàn thiện tổ chức, bộ máy và chính sách, pháp luật về tư pháp. Ngoài ra các cơ quan tư pháp còn gửi nhiều yêu cầu ủy thác, tương trợ tư pháp của Việt Nam cho nước ngoài và tiếp nhận xử lý nhiều hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp của một số nước (về hình sự, dân sự, dẫn độ và chuyển giao người bị kết án phạt tù); công nhận cho thi hành tại Việt Nam nhiều bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài và quyết định trọng tài nước ngoài. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ về tư pháp và pháp luật với hơn 80 quốc gia và tổ chức quốc tế. Đặc biệt gần đây, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Công tố viên quốc tế (năm 2012); chính thức trở thành thành viên của Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế (năm 2013); được bầu (năm 2013) và trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc vào đầu năm 2014; trở thành thành viên của Liên minh công chứng quốc tế (năm 2013).

 Hạn chế, vướng mắc: Việc phân công phối hợp đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện một số điều ước quốc tế về tư pháp vẫn chưa thực sự hợp lý, đồng bộ; chưa ký kết được các Hiệp định tương trợ tư pháp với một số nước có nhiều người Việt Nam sinh sống; chưa thực sự đề cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Công tác tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp chưa được tiến hành thường xuyên, toàn diện. Công tác đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp chưa thật sự được chú trọng, còn phân tán, hiệu quả chưa cao. Việc trao đổi, tham khảo kinh nghiệm về mô hình tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ngoài còn dàn trải, trùng lặp, chưa có kế hoạch thống nhất và ít chia sẻ thông tin nghiên cứu, dẫn đến lãng phí.

 VIII. Về việc bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp

 Chính phủ, các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương luôn quan tâm, cấp kinh phí hoạt động; đầu tư xây dựng trụ sở, nhà làm việc, kho tang vật, trường đào tạo, bồi dưỡng, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục, cải tạo… từng bước khang trang, có chất lượng.27 Phương tiện làm việc, trang bị kỹ thuật, phương tiện đi lại về cơ bản đã được bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ được giao. Các dự án được đầu tư giai đoạn 2006-2013 cho các cơ quan tư pháp cơ bản đáp ứng được yêu cầu trước mắt.

 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về định mức phân bổ dự toán chi, trong đó định mức chi thường xuyên phục vụ hoạt động của các cơ quan tư pháp cao hơn so với các bộ, cơ quan Trung ương cùng quy mô biên chế (1,57 lần); Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan kiểm sát, tòa án, thi hành án từ nguồn ngân sách địa phương. Từng bước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện làm việc và ưu tiên bố trí kinh phí phục vụ công tác điều tra, kiểm sát, xét xử, giám định tư pháp, thi hành án phù hợp điều kiện kinh tế của đất nước. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân, Kiểm sát nhân dân, Thi hành án đã từng bước được bổ sung, góp phần động viên cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ.

 Hạn chế, vướng mắc: Việc nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách phục vụ hoạt động tư pháp và việc nghiên cứu, đề xuất đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, khen thưởng đối với các cán bộ tư pháp còn chậm, chưa thực hiện đúng yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp. Việc ưu tiên bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ công tác điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án còn hạn chế; ngân sách nhà nước hằng năm mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu. Việc quy hoạch hệ thống trụ sở làm việc, trường đào tạo, bồi dưỡng; trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục, cải tạo, kho vật chứng phục vụ cho hoạt động của các cơ quan tư pháp còn chắp vá.

 IX. Về việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp

 Thực hiện các nhiệm vụ của Chiến lược cải cách tư pháp và các quy định của Điều lệ Đảng, các nguyên tắc tổ chức, hoạt động tư pháp, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp; tập trung lãnh đạo chặt chẽ về chính trị tư tưởng, tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp. Công tác đào tạo, quy hoạch, tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ trong các cơ quan tư pháp đã được các cấp ủy đảng thực hiện thường xuyên, có hiệu quả. Phần lớn các địa phương đều phân công đồng chí cấp ủy viên (hoặc thường vụ) tỉnh uỷ, thành ủy có trình độ chuyên môn, có năng lực, uy tín và bản lĩnh làm viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và chánh án toà án nhân dân các cấp28. Trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ X và XI, Bộ Chính trị phân công đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy viên Ban Bí thư Trung ương làm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; nhiều cán bộ lãnh đạo kiểm sát và tòa án là đại biểu Quốc hội. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội Hội Luật gia Việt Nam, Đại hội Luật sư Việt Nam và thành lập tổ chức Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07-7-2007 và Hướng dẫn thi hành số 01-HD/TW, ngày 18-11-2010 về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng. Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 30-3-2009 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư kịp thời đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Các cấp ủy đảng ở địa phương đã định kỳ tổ chức nghe các cơ quan tư pháp báo cáo tình hình hoạt động tư pháp và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên được tăng cường; hệ thống cơ quan tham mưu về công tác nội chính được tái thành lập từ Trung ương đến các tỉnh uỷ, thành ủy, có chức năng tham mưu cho cấp ủy cùng cấp về các chủ trương và chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính và phòng, chống tham nhũng.

 Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp vẫn còn một số tồn tại, hạn chế: Việc lãnh đạo và chỉ đạo nghiên cứu thực hiện một số chủ trương của Nghị quyết số 49-NQ/TW về đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp còn chậm, chưa toàn diện. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng ở địa phương trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp và công tác tư pháp chưa chặt chẽ, chưa đánh giá hết tầm quan trọng của công tác tư pháp trong xây dựng chính quyền. Việc bố trí cán bộ tham mưu về công tác tư pháp và cải cách tư pháp ở một số nơi chưa phù hợp, nên chất lượng tham mưu chưa cao; một số cán bộ tư pháp khi giải quyết vụ việc thiếu bản lĩnh, nể nang, không thực hiện đúng các quy định của Đảng làm ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động tư pháp. Việc thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW và Hướng dẫn số 01-HD/TW của Bộ Chính trị ở một số nơi chưa thực sự đúng, có biểu hiện lạm dụng việc báo cáo xin ý kiến. Việc hoàn thiện cơ chế về mối quan hệ công tác giữa cấp ủy, tổ chức đảng trong cơ quan tư pháp với lãnh đạo cơ quan tư pháp còn chậm; hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đối với đảng viên chưa cao, chưa kịp thời phát hiện sai phạm để uốn nắn, chấn chỉnh. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ quan tư pháp các cấp chưa bảo đảm cơ cấu (về độ tuổi, số lượng cán bộ nữ, cán bộ dân tộc); công tác luân chuyển cán bộ ngành Tư pháp giữa trung ương và địa phương còn khó khăn, chưa đi vào nền nếp.

  

  

  

  

  

 Tag: 2020 2016