CHỈ THỊ 29-CT/TW

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
Số: 29-CT/TW
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Toàn quốc, ngày 18 tháng 9 năm 2013

 CHỈ THỊ

 Về đẩy mạnh công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

 ___________________________

 

 Thời gian qua, công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động đã được Ðảng, Nhà nước, các doanh nghiệp quan tâm và đạt được những kết quả quan trọng, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhiều tổ chức, cá nhân sử dụng lao động chưa nêu cao trách nhiệm, vi phạm các quy định pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Phần lớn người lao động còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng và thiếu chủ động trong phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chưa thực hiện đúng quy định về khám, kiểm tra sức khỏe định kỳ. Tình trạng mất an toàn lao động, vệ sinh lao động trong các cơ quan, doanh nghiệp, khu vực nông nghiệp, nông thôn, làng nghề xảy ra khá phổ biến; tai nạn lao động, người bị tai nạn, người mắc bệnh nghề nghiệp có xu hướng gia tăng. Trong đó, có nhiều vụ nghiêm trọng, gây tổn thất lớn về người và tài sản, để lại hậu quả nặng nề, lâu dài cho người lao động và xã hội.

 Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên có yếu tố khách quan, nhưng chủ quan là chủ yếu. Nhận thức của nhiều cấp ủy đảng, chính quyền, doanh nghiệp, người đứng đầu các tổ chức, cơ quan và người dân về an toàn lao động, vệ sinh lao động chưa đầy đủ. Công tác tuyên truyền, giáo dục còn mang tính hình thức, thiên về đưa tin các vụ việc, thiếu biện pháp cảnh báo, phòng ngừa. Hệ thống pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động còn thiếu, chưa đồng bộ; một số cơ chế, chính sách chưa phù hợp, thiếu tính khả thi; nhiều tiêu chuẩn, quy chuẩn không còn phù hợp, chậm được sửa đổi. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước phân tán, thiếu sự phối hợp, hiệu quả thấp. Năng lực, trình độ cán bộ làm công tác này còn nhiều hạn chế. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động còn thiếu thường xuyên, chưa đủ sức răn đe. Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ về an toàn lao động, vệ sinh lao động chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều tổ chức đại diện người sử dụng lao động, người lao động và các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể, hội nghề nghiệp chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm trong việc giám sát, bảo vệ quyền lợi cho người lao động.

 Nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém, tăng cường chủ động phòng ngừa, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho người lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:

 1- Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức chủ động bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động cho cán bộ, đảng viên và nhân dân

 Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức và doanh nghiệp cần xác định công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động là nhiệm vụ quan trọng và đưa vào chương trình, kế hoạch hoạt động hằng năm. Gắn công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị. Ban hành các tiêu chí, chuẩn mực về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

 Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, cần ưu tiên tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, doanh nghiệp và người sử dụng lao động.

 Tăng cường công tác phổ biến kinh nghiệm, phương pháp và kỹ năng phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho doanh nghiệp và toàn xã hội. Khắc phục triệt để tình trạng người sử dụng lao động vi phạm các quy định, không thực hiện trách nhiệm bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người lao động và việc người lao động mới chỉ quan tâm đến việc làm, thu nhập mà xem nhẹ bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động cho chính mình.

 2- Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao hiểu biết, kỹ năng phòng tránh tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và bảo đảm vệ sinh lao động cho người lao động

 Đưa nội dung an toàn lao động, vệ sinh lao động vào chương trình đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học. Các cơ sở đào tạo, giáo dục, đặc biệt là đào tạo nghề, các doanh nghiệp, người sử dụng lao động có biện pháp lồng ghép giữa việc đào tạo kiến thức chuyên môn, nâng cao tay nghề với việc nâng cao trình độ, kỹ năng phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quản lý rủi ro, bảo đảm vệ sinh lao động cho người lao động.

 Chương trình đào tạo, huấn luyện kỹ năng phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, đảm bảo vệ sinh lao động phải phù hợp với quá trình đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất trong từng lĩnh vực. Chú ý đào tạo đội ngũ cán bộ khuyến nông để hướng dẫn nông dân thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai nạn lao động, bảo đảm vệ sinh lao động trong sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp.

 Gắn công tác đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng phòng ngừa tai nạn lao động, bảo đảm vệ sinh lao động với các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình xây dựng nông thôn mới, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo nghề cho bộ đội phục viên, xuất ngũ.

 3- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất, sử dụng trang thiết bị bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho người lao động

 Chú trọng công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động, đặc biệt là trong những ngành nghề, lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Bảo đảm có đủ phương tiện cá nhân thiết yếu, phương tiện cấp cứu, cứu hộ, các trang thiết bị bảo hộ lao động cho người lao động. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động phù hợp với yêu cầu tình hình mới, thay thế cho các tiêu chuẩn, quy chuẩn cũ.

 4 – Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động

 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động phù hợp với các quy định, công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

 Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý theo hướng thống nhất, tập trung, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, khắc phục triệt để tình trạng phân tán, chồng chéo trong quản lý nhà nước. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các doanh nghiệp, các tổ chức, cơ quan, người sử dụng lao động để xảy ra mất an toàn lao động, vệ sinh lao động. Có cơ chế khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân làm tốt; có chế tài xử phạt nghiêm các vi phạm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Xây dựng hệ thống thông tin theo dõi, hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tình hình an toàn lao động, vệ sinh lao động.

 Nâng cao hiệu quả hoạt động, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, tổ chức công đoàn, các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện an toàn lao động, vệ sinh lao động; công tác giám định và thực hiện các chính sách khắc phục hậu quả tai nạn lao động. Phát động phong trào quần chúng xây dựng văn hóa an toàn lao động tại nơi làm việc.

 5- Đổi mới cơ chế, chính sách, đa dạng hóa nguồn lực xã hội trong thực hiện công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động

 Đổi mới cơ chế, chính sách trong công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động theo hướng ưu tiên cho các hoạt động phòng ngừa, quản lý rủi ro, làm rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc đầu tư cho công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động. Chú ý có chính sách bồi dưỡng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; cơ chế đầu tư cho hoạt động phục hồi chức năng cho người bị tai nạn, bảo đảm công bằng và cuộc sống cho người bị nạn và thân nhân. Quan tâm chăm sóc sức khỏe người lao động, thường xuyên khám phát hiện bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Củng cố và hoàn thiện các cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động cho người lao động.

 Huy động nguồn lực xã hội tham gia vào việc bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động; mở rộng các hình thức bảo hiểm, bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp linh hoạt theo ngành, lĩnh vực. Có cơ chế đầu tư cho các hoạt động cảnh báo, phòng ngừa, quản lý rủi ro, phục hồi chức năng cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sử dụng lao động và người lao động thực hiện tốt các quy định pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Phát triển các dịch vụ huấn luyện, kiểm định, tư vấn kỹ thuật an toàn lao động, vệ sinh lao động nhằm nâng cao quyền và lợi ích của người lao động.

 6- Chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế về an toàn lao động, vệ sinh lao động

 Tích cực triển khai các hoạt động đối ngoại trong khuôn khổ khu vực ASEAN và quốc tế; coi trọng việc tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tiếp cận, ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước để đảm bảo ngày càng tốt hơn công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động ở trong nước.

 Tranh thủ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, hỗ trợ của các nước, các tổ chức quốc tế, tiến tới chủ động đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực trong nước; từng bước hỗ trợ kỹ thuật, chuyên gia đối với một số nước trong khu vực ASEAN.

 7- Tổ chức thực hiện

 – Các cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức nghiên cứu, quán triệt và xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Chỉ thị phù hợp với tình hình của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị. Thường xuyên chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện; coi trọng việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng những điển hình làm tốt.

 – Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo xây dựng, ban hành Luật An toàn, vệ sinh lao động và hoàn chỉnh các quy định pháp luật phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tăng cường giám sát việc chấp hành pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.

 – Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng chương trình, tăng cường phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong việc tổ chức thực hiện. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý, ban hành đồng bộ các văn bản dưới luật; rà soát và hoàn thiện các cơ chế, chính sách về công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động. Khen thưởng, biểu dương kịp thời các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động.

 – Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng có các chuyên mục tuyên truyền sâu rộng, thiết thực, hiệu quả về công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động.

 – Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đẩy mạnh công tác vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động; tăng cường công tác giám sát, phối hợp với các cơ quan nhà nước phổ biến, tuyên truyền, tư vấn cho các đoàn viên, hội viên; biểu dương, nhân rộng gương người tốt, việc tốt trong công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động.

 – Ban Kinh tế Trung ương chủ trì theo dõi việc thực hiện Chỉ thị và định kỳ báo cáo Ban Bí thư.

 Chỉ thị này được phổ biến, quán triệt đến chi bộ để thực hiện.

ĐANG CẬP NHẬT
(Đã ký)
Lê Hồng Anh

  

  

  

  

  

  

  

 Tag:  29 29-ct/tu bài 5 3 chống