Chuyển nhượng cổ phần là gì – Các quy định pháp luật về chuyển nhượng cổ phần

Chuyển nhượng cổ phần là gì?

           Việc chuyển nhượng cổ phần là hành vi làm thay đổi (mua bán, tặng cho, thừa kế … ) số lượng cổ phần mình đang nắm giữ hay nói cách khác là việc chuyển số cổ phần mình đang nắm giữ cho người khác. Việc chuyển nhượng cổ phần của người sở hữu cổ phần phải theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Theo đó, việc chuyển nhượng cổ phần là tự do, trừ các trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng khác.

Quy định của pháp luật hiện hành về chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần

           Chuyển nhượng cổ phần được quy định cụ thể tại Điều 126 Luật doanh nghiệp 2014 và một số điều luật, các luật khác có liên quan.

1. Nguyên tắc tự do chuyển nhượng

           Khoản 1 Điều 126 quy định: “Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 của Luật này và Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.”

           Nhìn chung, cổ phần được tự do chuyển nhượng, không bị giới hạn về đối tượng được nhận chuyển nhượng cũng như giới hạn về số lượng cổ phần được chuyển nhượng. Điều đó có nghĩa là người sở hữu cổ phần có thể chuyển nhượng một phần hay toàn bộ số cổ phần mình nắm giữ cho người khác, nếu không thuộc các trường hợp mà pháp luật hạn chế chuyển nhượng (khoản 3 Điều 119) hay Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng.

           Dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 199 như sau: “Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó.”

           Như vậy, việc hạn chế chuyển nhượng theo pháp luật áp dụng với đối tượng là cổ đông sáng lập trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp. Quyền tự do chuyển nhượng bị thu hẹp về đối tượng nhận chuyển nhượng là các cổ đông sáng lập khác, nếu đối tượng nhận chuyển nhượng không phải là cổ đông sáng lập, thì chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông khi được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Quy định như vậy nhằm mục đích ổn định tổ chức của công ty trong 03 năm đầu – khi công ty mới thành lập, bên cạnh đó cũng nhằm buộc cổ đông sáng lập phải chịu trách nhiệm với công ty khi công ty vừa được thành lập và đang trong giai đoạn phát triển. Sau 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp thì mọi hạn chế đối với cổ đông sáng lập được bãi bỏ. Việc hạn chế chuyển nhượng đối với cổ phần của cổ đông sáng lập một phần cũng nhằm để bảo vệ lợi ích cho người mua cổ phần là người không tham gia thành lập công ty cổ phần, không biết được thực trạng công ty khi mới thành lập.

           Việc hạn chế chuyển nhượng theo Điều lệ công ty thì bắt buộc các quy định này phải được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng. Đồng thời các quy định này phải phù hợp và không trái các quy định của pháp luật.

           Hầu hết các loại cổ phần đều có thể tự do chuyển nhượng, trừ cổ phần ưu đãi biểu quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 116: “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác”. Sở dĩ cần quy định như vậy vì cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông mà quyền của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết bao gồm quyền biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hạn chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết chính là nhằm nâng cao trách nhiệm đối với công ty của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết và không làm xáo trộn vị trí quản lý của công ty.

2. Các trường hợp chuyển nhượng

           Cổ đông chuyển nhượng cổ phần mà mình nắm giữ trong các trường hợp chuyển nhượng thông thường và trường hợp đặc biệt là khi cổ đông là cá nhân chết hoặc cổ đông tặng, cho cổ phần hay sử dụng cổ phần để trả nợ.

 * Trường hợp chuyển nhượng thông thường 

           Công ty cổ phần có thể trực tiếp bán cổ phần của mình cho người mua. Người muốn mua cổ phần của công ty có thể mua trực tiếp khi công ty chào bán cổ phần hoặc nhận chuyển nhượng từ cổ đông khác. Như vậy, chuyển nhượng cổ phần thực chất là hoạt động mua bán cổ phần giữa cổ đông của công ty với người khác. Đây là một loại giao dịch trên sự thỏa thuận giữa cổ đông là người muốn bán một phần hoặc toàn bộ cổ phần của mình và người muốn mua cổ phần để trở thành cổ đông của công ty.

           Cần phân biệt chuyển nhượng cổ phần với bán cổ phần và mua lại cổ phần vì tuy cùng đều có bản chất là quan hệ mua bán, làm thay đổi chủ sở hữu đối với cổ phần được bán hoặc chuyển nhượng trong công ty cổ phần nhưng bản chất của ba dạng thức mua bán này hoàn toàn khác nhau.

           Thứ nhất, về chủ thể: Chủ thể của hoạt động chuyển nhượng cổ phần bao gồm bên bán là các cổ đông và bên mua là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu góp vốn. Chủ thể của hoạt động bán cổ phần bao gồm bên bán là công ty phát hành cổ phần, bên mua là cổ đông và công chúng. Còn mua lại cổ phần bao gồm bên bán là cổ đông và bên mua chính là công ty phát hành cổ phần.

           Thứ hai, về mục đích và điều kiện: Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng. Trong khi đó, việc mua lại cổ phần chỉ được thực hiện trong trường hợp: cổ đông biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ. Bán cổ phần không quy định về điều kiện, song mục đích của việc bán cổ phần là nhằm tăng vốn điều lệ của công ty.

           Thứ ba, về hậu quả pháp lí: Việc chuyển nhượng cổ phần sẽ không làm thay đổi cấu trúc vốn điều lệ của công ty cổ phần. Còn với việc bán cổ phần, việc tăng thêm số lượng cổ phần được chào bán và bán các cổ phần đó sẽ làm tăng thêm vốn điều lệ của công ty. Với việc mua lại cổ phần thì vốn điều lệ của công ty cũng không giảm ngay, nhưng nếu hết đợt chào bán cổ phần, mà công ty không chào bán được số cổ phần mua lại thì công ty phải đăng kí giảm vốn điều lệ.

           Như vậy, chuyển nhượng cổ phần thông thường sẽ là hoạt động mua bán phần cổ phần mà cổ đông của công ty sở hữu.

 * Trường hợp cổ đông là cá nhân chết

           Khoản 3 Điều 126 có quy định về việc chuyển nhượng cổ phần trong trường hợp cổ đông là cá nhân chết như sau: “Trường hợp cổ đông là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đó là cổ đông của công ty.”

           Như vậy, việc chuyển nhượng cổ phần trong trường hợp này sẽ căn cứ vào di chúc của cổ đông đó. Với quyền tự cho chuyển nhượng của mình, cổ đông có thể di chúc lại việc chuyển nhượng một phần hay toàn bộ số cổ phần mà mình nắm giữ, cho một người hay nhiều người tùy thuộc vào ý chí của mình. Hoặc nếu không có di chúc thì cổ phần của cổ đông sẽ được pháp luật chia theo pháp luật về thừa kế. Việc quy định trường hợp này nhằm đảm bảo lợi ích của cổ đông, vì cổ phần là một loại tài sản hợp pháp nên sau khi cổ đông chết thì số tài sản này được chia thừa kế như những loại tài sản khác.

           Tuy nhiên, còn có những trường hợp khác quy định tại khoản 4 Điều 126 “Trường hợp cổ phần của cổ đông là cá nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì số cổ phần đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự”. Đây là những trường hợp đặc biệt mà luật doanh nghiệp không quy định cụ thể. Theo pháp luật dân sự thì những trường hợp này giải quyết như sau: “Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước.” (Điều 644 – BLDS 2005). Đây là trường hợp hiếm xảy ra, nhưng khi xảy ra trên thực tế thì phần cổ phần của cổ đông đó thường được để lại cho công ty. Như vậy đặt ra câu hỏi liệu quy định của luật doanh nghiệp trong trường hợp này có phù hợp với thực tiễn hay không? Đây là một vấn đề cần được dự liệu và xem xét kĩ hơn.

 * Trường hợp cổ đông tặng cho cổ phần hoặc sử dụng cổ phần để trả nợ

           Khoản 5 Điều 126 quy định: “Cổ đông có quyền tặng cho một phần hoặc toàn bộ cổ phần của mình tại công ty cho người khác; sử dụng cổ phần để trả nợ. Trường hợp này, người được tặng cho hoặc nhận trả nợ bằng cổ phần sẽ là cổ đông của công ty.”

           Việc tặng cho một phần hay toàn bộ cổ phần tùy thuộc vào ý chí của cổ đông sở hữu cổ phần đó mà không cần thiết phải có sự thỏa thuận giữa bên tặng, cho và bên nhận. Còn việc dùng cổ phần để trả nợ thì buộc phải có sự thỏa thuận giữa hai bên. Sử dụng cổ phần để trả nợ thực chất là việc chuyển quyền sở hữu số cổ phần mình nắm giữ cho chủ nợ, việc trả nợ dựa trên việc quy đổi giá trị của cổ phần theo giá thị trường hoặc theo thỏa thuận của hai bên.

3. Phương thức chuyển nhượng cổ phần

           Khoản 2 Điều 126 quy định về phương thức chuyển nhượng cổ phần thông thường như sau: “Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Trường hợp chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Trường hợp chuyển nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán”. Như vậy, có hai phương thức để thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần, hoặc là thông qua hợp đồng chuyển nhượng, hoặc là thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán.

 * Thông qua hợp đồng chuyển nhượng

           Việc chuyển nhượng cổ phần theo hợp đồng chuyển nhượng cần tuân theo các quy định của pháp luật.

           Thứ nhất, về hồ sơ chuyển nhượng cổ phần: Đối với cổ đông là cá nhân, hồ sơ chuyển nhượng cổ phần bao gồm: Giấy đề nghị chuyển nhượng cổ phần; CMTND của bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng; Sổ chứng nhận cổ phần của bên chuyển nhượng; Sổ chứng nhận cổ phần của bên nhận chuyển nhượng (nếu là cổ đông hiện hữu); Giấy ủy quyền có xác nhận của địa phương hoặc công chứng (trong trường hợp người chuyển nhượng không trực tiếp đến làm thủ tục chuyển nhượng). Đối với cổ đông là tổ chức, hồ sơ bao gồm: Giấy đề nghị chuyển nhượng cổ phần; Bản sao công chứng Đăng ký kinh doanh hiện hành (bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng); Sổ chứng nhận cổ phần của bên chuyển nhượng; Sổ chứng nhận cổ phần của bên nhận chuyển nhượng (nếu là cổ đông hiện hữu); Quyết định hợp pháp của tổ chức về việc cho phép chuyển nhượng cổ phiếu; Giấy ủy quyền của tổ chức cho người đại diện giao dịch chuyển nhượng (nếu người thực hiện giao dịch không phải là đại diện của tổ chức đó).

 Hồ sơ chuyển nhượng là yêu cầu bắt buộc để chuẩn bị cho hoạt động chuyển nhượng cổ phần của cổ đông.

           Thứ hai, về thủ tục chuyển nhượng cổ phần: Thủ tục chuyển nhượng cổ phần được tiến hành theo trình tự như sau:

 – Các bên liên quan ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.

 – Tiến hành lập biên bản xác nhận về việc đã hoàn thành thủ tục chuyển nhượng cổ phần.

 – Tổ chức cuộc họp Đại Hội đồng cổ đông để thông qua việc chuyển nhượng cổ phần.

 – Tiến hành chỉnh sửa, bổ sung thông tin trong Sổ đăng ký cổ đông của công ty.

 – Tiến hành đăng ký thay đổi cổ đông theo quy định.

 Chỉ khi nào thực hiện xong đầy đủ các thủ tục trên thì việc chuyển nhượng cổ phần mới hoàn thành một cách trọn vẹn.

 Tuy nhiên, đây là hợp đồng chuyển nhượng thông thường. Với việc chuyển nhượng bằng tặng cho thì phải dùng hợp đồng tặng cho, hoặc chuyển nhượng cổ phần khi cổ đông chết thì lại cần những hợp đồng cá biệt khác.

 * Thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán

           Việc chuyển nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán được quy định trong pháp luật về chứng khoán. Chuyển nhượng cổ phần trên thị trường chứng khoán được biểu hiện bằng việc mua bán cổ phiếu. Giao dịch này dựa trên nguyên tắc thỏa thuận tự do giữa bên mua và bên bán, tuy nhiên việc mua bán diễn ra trên thị trường chứng khoán. Người mua cổ phần cần tìm hiểu kĩ về công ty mình mua cổ phần cũng như các vấn đề liên quan đến cổ phần mình định mua, các quyền và nghĩa vụ để tránh rủi ro.

4. Hậu quả pháp lý sau việc chuyển nhượng cổ phần

 * Về phía cổ đông chuyển nhượng

           Cổ đông sau khi đã chuyển nhượng toàn bộ cổ phần của mình cho người khác hoặc chết sẽ không còn là cổ đông của công ty, tức là không còn tên trong Sổ đăng kí cổ đông.

           “Trường hợp cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần thì cổ phiếu cũ bị hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số cổ phần còn lại” (khoản 6 Điều 126). Lúc này cổ đông vẫn giữ một phần cổ phần của mình và là cổ đông với cổ phần ít hơn, đồng thời các quyền và nghĩa vụ của cổ đông này thay đổi, giảm đi, tương ứng với phần cổ phần còn lại mà mình sở hữu.

 * Về phía người được nhận cổ phần chuyển nhượng

           Người nhận cổ phần (thông qua mua bán, tặng cho, thừa kế, nhận trả nợ bằng cổ phần) sẽ là cổ đông của công ty. Tuy nhiên, “người nhận cổ phần trong các trường hợp quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các thông tin của họ quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông” (khoản 7 Điều 126). Theo khoản 2 Điều 121 thì các thông tin của họ bao gồm: Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; Tổng số cổ phần được quyền chào bán, loại cổ phần được quyền chào bán và số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; Tổng số cổ phần đã bán của từng loại và giá trị vốn cổ phần đã góp; Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác đối với cổ đông là cá nhân / tên, mã số doanh nghiệp hoặc số quyết định thành lập, địa chỉ trụ sở chính đối với cổ đông là tổ chức; Số lượng cổ phần từng loại của mỗi cổ đông, ngày đăng ký cổ phần.

           Quy định này nhằm đảm bảo tính chặt chẽ trong việc quản lý cổ đông cũng như cổ phần của công ty. Khi trở thành cổ đông của công ty, người nhận chuyển nhượng được hưởng quyền và nghĩa vụ tương ứng với phần cổ phần mà mình được chuyển nhượng.

 * Về vốn điều lệ của công ty

           Vốn điều lệ của công ty không có sự thay đổi bởi số lượng cổ phần được bảo toàn, không tăng lên hay giảm đi mà chỉ chuyển từ đối tượng sở hữu này sang đối tượng sở hữu khác.

Đánh giá quy định về chuyển nhượng cổ phần của công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp 2014

           Quy định về chuyển nhượng cổ phần trong Luật doanh nghiệp 2014 là một quy định mới, tiến bộ hơn so với các luật trước đó. Trong Luật doanh nghiệp 2005, không có quy định riêng cho việc chuyển nhượng cổ phần trong CTCP, việc chuyển nhượng được quy định chung với chào bán cổ phần tại Điều 87. Cụ thể, việc chuyển nhượng được quy định tại khoản 5 Điều 87 như sau:

 Các cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng văn bản theo cách thông thường hoặc bằng cách trao tay cổ phiếu. Giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện uỷ quyền của họ ký. Bên chuyển nhượng vẫn là người sở hữu cổ phần có liên quan cho đến khi tên của người nhận chuyển nhượng được đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông.

 Trường hợp chỉ chuyển nhượng một số cổ phần trong cổ phiếu có ghi tên thì cổ phiếu cũ bị huỷ bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số cổ phần còn lại.”

           Có thể thấy rằng quy định trên còn nhiều thiếu xót và bất cập. Luật doanh nghiệp 2014 đã sửa đổi và bổ sung. Việc tách chuyển nhượng cổ phần với chào bán cổ phần, thể hiện đây là hai việc độc lập, khác biệt nhau. Bên cạnh đó cũng dự trù được các trường hợp chuyển nhượng đặc biệt khác trong chuyển nhượng cổ phần và quy định chính xác hơn về cách thức chuyển nhượng bằng hợp đồng hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán.

           Qua đây cũng thể hiện rằng pháp luật của nước ta đang ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Tạo điều kiện cho xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh thương mại.

 

 

 

 Tag: phân tích các quy định pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần