Đăng ký hộ tịch dân tộc thiểu số

 Em có 1 vấn đề muốn hỏi về đăng ký hộ tịch dân tộc thiểu số như sau:

 Em là người dân tộc thái, chỗ em đặc thù cư dân thưa thớt, nhà khá xa nhau và xa UBND. Nhà em mới có thêm thành viên vậy

  • Thủ tục đăng ký hộ tịch với ai và như thế nào, trong bao nhiêu ngày.
  • Mẹ em có được đi khai sinh cho cháu không, và có cần giấy chứng sinh không
  • Khai chậm so với thời hạn thì có bị sao không ạ.

  

 Trả lời:

 Dựa theo Thông Tư Số: 30-NV-DC

 1.– Thời hạn khai sinh cũng như khai tử được nới rộng là 45 ngày.2. – Khi có việc sinh hay việc tử, nhân dân đến báo với trưởng xóm. Trưởng xóm sẽ thay mặt người đương sự đến UBHC xã xin đăng ký. Trường hợp ở gần trụ sở UBHC thì người đương sự trực tiếp khai báo và đăng ký với UBHC xã. Quy định như thế là để cho nhân dân khai báo được dễ dàng và khi có việc là đi khai ngày.

  1. – Khi khai sinh, nếu là cha mẹ đứng khai thì không phải có giấy chứng sinh hay người làm chứng. Cả đến trường hợp thân nhân (như ông bà nội ngoại, chú, bác, cô, cậu, anh, chị ruột của đứa trẻ) đứng khai cũng được miễn giấy chứng sinh hoặc người làm chứng.

 – Về khai tử, thì không quy định nguyên tắc phải xin phép mai táng và thời hạn xin phép mai táng mà chỉ yêu cầu rằng trước khi chôn cất phải đến báo với trưởng xóm để trưởng xóm đến UBHC xã xin đăng ký tử.

 – Trong việc khai kết hôn, không quy định thủ tục phải báo trước 8 ngày. Khi nào thành vợ thành chồng, đôi nam nữ đến UBHC xã xin đăng ký. Nếu cả hai nam nữ đều trên 18 tuổi thì không buộc phải có hai người chứng cùng ký vào sổ khai kết hôn.

  1. Chưa quy định kỷ luật đối với người khai chậm.

 Bộ nêu những điểm châm chước chính trên đây để giúp Ủy ban thấy được tinh thần đơn giản của bản điều lệ này so với bản điều lệ chung. Còn những điều khác như cách thức đăng ký, mẫu mực, sổ sách, cách ghi chép, cấp phát, lưu trữ bảo quản,v.v… thì đều giống như đã quy định trong bản điều lệ chung và các thông tư tiếp theo. Cho nên, để hiểu rõ thêm về bản điều lệ này, xin Ủy ban xem lại những thông tư, chỉ giải thích chung về công tác đăng ký hộ tịch đã ban hành từ trước đến nay (thông tư số 6-NV/DC/TT ngày 25/5/1956 đăng trong Công báo số 14 tháng 6 năm 1956, đăng trong Công báo số 14 tháng 6 năm 1956 – thông tư số 11-HTTK ngày 27/6/1956 chỉ thị số 2569-HTTK ngày 14/5/1957 – chỉ thị số 3484-HTTK ngày 27/6/1957 đăng trong Công báo số 45 tháng 11 năm 1957).