Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa

 Pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì

 Đặc điểm cơ bản của kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa là: thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả cộng đồng dân tộc nói chung; có mối quan hệ mật thiết với đường lối chủ trương chính sách của Đảng cộng sản; thừa hưởng những thành quả của pháp luật ra đời trong xã hội tư sản; …

 Vì sao xã hội cần có pháp luật

 Sở dĩ phải có pháp luật là bởi Pháp luật là các quy định chuẩn mực về những việc được làm, những việc phải làm và những việc không được làm, nhằm đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. … Nếu không có pháp luật thì sẽ bất ổn, xã hội không phát triển được.

 Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa

 Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nướ

 Một trong những nguyên lý, đã được khẳng định là quốc gia chẳng thể tồn tại thiếu pháp luật và luật pháp không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy quốc gia. Trong khoa học có những quan điểm nhấn mạnh ý nghĩa tuyệt đối của quyền lực nhà nước, coi đó là cái nảy sinh cái thứ nhất, còn pháp luật chỉ là cái phái sinh (cái thứ hai); hoặc coi pháp luật đứng trên quốc gia, quốc gia phải tuyệt đối phục tùng luật pháp… Là chưa có cơ sở xứng đáng vị:

 Thứ nhất, đúng là pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng luật pháp không phải chỉ là kết quả của tư duy chủ quan một cách đơn thuần, mà nó còn xuất phát từ những nhu cầu khách quan của tầng lớp. Luật pháp chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu như nó hiệp với trình độ phát triển kinh tế tầng lớp.

 Thứ hai, pháp luật cũng còn cần có quyền lực quốc gia bảo đảm mới có thể phát huy tác dụng trong thực tại đời sống. Do vậy nói pháp luật đứng trên nhà nước là không thực tại.

 Thứ ba, nhu cầu về luật pháp còn là nhu cầu tự thân của bộ máy quốc gia. Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ quan quốc gia). Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng; phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động thích hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực quốc gia. Tất những điều đó chỉ có thể thực hành được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của luật pháp.

 Thực tế cho thấy khi chưa có một hệ thống quy phạm luật pháp về tổ chức đầy đủ, đồng bộ, hiệp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy quốc gia thì dễ dẫn đến tình trạng trùng, chồng chéo, thực hành khống đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan quốc gia, bộ máy sẽ sinh ra cồng kềnh và kém hiệu quả.

 Na ná như trên, pháp luật có vai trò quan yếu trong việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi loại cán bộ, mỗi cán bộ làm việc trong từng cơ quan cụ thể của bộ máy quốc gia. Nhờ có luật pháp, các hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách nhiệm… Của hàng ngũ viên chức nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại trừ.

 Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội

 Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội 

 Quốc gia là đại diện chính thức của toàn thể từng lớp, Vì vậy nhà nước có chức năng (nhiệm vụ) quản lý toàn tầng lớp.

 Để quản lý toàn tầng lớp, nhà nước dùng nhiều dụng cụ, nhiều biện pháp, nhưng luật pháp là công cụ quan yếu nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, luật pháp có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có luật pháp, quốc gia có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và rà, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các viên chức nhà nước và mọi công dân.

 Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò lớn. Bởi, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của quốc gia có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm soát như hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá… Thảy quá trình tổ chức và quản lý đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của quốc gia nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, xúc tiến quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực.

 Do thuộc tính phức tạp và khuôn khổ rộng của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước không thể trực tiếp tham dự vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý ở tầm vĩ mô và mang thuộc tính hành chính – kinh tế. Quá trình quản lý kinh tế không thể thực hành được nếu không dựa vào pháp luật.

 Chỉ trên cơ sở một hệ thống văn bản luật pháp kinh tế đầy đủ, đồng bộ, hiệp với thực tiễn (điều kiện và trình độ phát triển của kinh tế xã hội) và kịp thời trong mỗi thời kỳ cụ thể, quốc gia mới có thể phát huy được hiệu lực của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội.

  Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới 

 Bên cạnh chức năng đề đạt, luật pháp còn có tính tiên phong, định hướng cho sự phát triển của các quan hệ từng lớp. Có thể nói, luật pháp có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng (lập) nên những quan hệ mới.

 Trên cơ sở xác định thực trạng từng lớp với những tình huống (sự kiện) cụ thể, tiêu biểu, tồn tại và tái diễn bộc trực ở những thời khắc cụ thể trong tầng lớp, nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và hiệp. Nhưng cuộc sống vốn sống động và thực tế thường diễn ra với những đổi thay thẳng tuột. Tuy nhiên, về cơ bản những đổi thay đó vẫn diễn ra theo những quy luật nhất thiết mà con người có thể nhận thức được.

 Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học, người ta có thể dự định được những đổi thay có thể diễn ra với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình cần có sự điều chỉnh bằng luật pháp. Từ đó luật pháp được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức thí nghiệm…

 Tuy vậy, pháp luật bao giờ cũng có sự ổn định tương đối. Sự hình thành mới hoặc thay đổi thường chỉ diễn ra với từng bộ phận của hệ thống pháp luật, ít có những đột biến toàn phần trong một thời kì ngắn. Tính định hướng của luật pháp cũng theo quy luật đó. Hệ thống quy phạm định hướng chỉ là một bộ phận nhất định của hệ thống pháp luật thực định của mỗi nhà nước.

 Sự phối hợp hài hòa giữa tính cụ thể của luật pháp với tính tiền phong (định hướng) của nó có một ý nghĩa rất quan yếu là tạo ra được sự ổn định và phát triển, kế thừa và đổi mới trực tính, làm cho luật pháp năng động, hiệp hơn, tiến bộ hơn.

 Pháp luật tạo ra môi trường ổn định trong việc thiết lập các mối quan hệ giao ban giữa các quốc gia 

 Có một thực tiễn là tiện chế chính trị có thể đổi thay, tức là quyền lực của một bộ máy quốc gia trong một thời kỳ lịch sử nhất mực có thể đổi thay, nhưng nhân dân và quyền lực quần chúng vẫn tồn tại và phát triển. Những quan hệ đa chiều trong xã hội vẫn phát triển và đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm sự ổn định thứ tự. Bởi thế, quyền lực dân chúng là vấn đề căn bản; trật tự từng lớp là đòi hỏi khách quan và những nhu cầu về luật pháp là xoành xoạch có.

 Luật pháp và nhà nước luôn có quan hệ khăng khít với nhau “như hình với bóng”. Nhưng đó là nói ở góc độ chung. Khi tiếp cận ở giác độ cụ thể, luật pháp có những nét riêng cơ bản. Đó là khi luật pháp phản ánh đúng những lợi. Của dân tộc, của quần chúng thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải trọng. Nếu đi trái lại điều đó là ngược với lợi. Của dân tộc, của nhân dân và sẽ bị nhân dân phản đối, không coi trọng, không chấp hành. Xét ở góc độ này, luật pháp còn có vai trò giữ gìn sự ổn định và thứ tự xã hội.

 Sự ổn định của mỗi nhà nước là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở mang các mối bang giao với các nước khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi của các mối quan hệ bang giao giữa các nước càng ngày càng lớn và nội dung thuộc tính của các quan hệ đó càng ngày càng đa diện (nhiều mặt). Cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các mối quan hệ bang giao đó là pháp luật (luật pháp quốc tế và pháp luật nhà nước). Khởi hành từ nhu cầu đó, hệ thống luật pháp của mỗi nước cũng có bước phát triển mới: Bên cạnh những văn bản luật pháp quy định và điều chỉnh các quan hệ tầng lớp có liên quan đến các chủ thể luật pháp trong nước còn cần có đầy đủ các văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ có nhân tố nước ngoài,  dụ, luật đầu tư, luật về khoa học, và công nghệ…

 Cũng cần nhấn mạnh rằng, muốn có môi trường từng lớp ổn định để mở mang các mối bang giao và hiệp tác thì chẳng thể chỉ để ý ”một mảng” của hệ thống luật pháp của một quốc gia, mà phải để ý tới sự đồng bộ của cả hệ thống luật pháp của quốc gia đó. Bởi, hệ thống pháp luật của mỗi nhà nước là một chỉnh thể, mỗi bộ phận (mỗi mảng) trong hệ thống pháp luật đó không thể tồn tại và phát triển riêng biệt, cục bộ được mà luôn có quan hệ và tác động qua lại với các bộ phận khác.

 Như vậy muốn thực hành tốt sự quản lý quốc gia, đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, mở rộng quan hệ và cộng tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trò của luật pháp, phải mau chóng xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ, thích hợp với những điều kiện và cảnh ngộ trong nước, đồng thời hợp với thiên hướng phát triển chung với tình hình quốc tế và khu vực.

 Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa

  Lịch sử hình thành của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội đã được ra đời và xây dựng ở những nước có điều kiện phát triển kinh tế và xã hội rất khác nhau, điều đó đã dẫn đến sự khác nhau về lối sống, về các truyền thống lịch sử và dân tộc. Các Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có sự khác nhau cơ bản về lãnh thổ, dân số, lịch sử phát triển pháp luật. Ngay cả lịch sử các dân tộc ở các quốc gia đó cũng khác nhau, các tôn giáo và các truyền thống dân tộc của họ cũng khác nhau. Chính những khác biệt đó đã dẫn đến sự xuất hiện của các dạng khác nhau của các hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Suy cho cùng sự khác nhau này xuất phát từ phương thức xuất hiện và phát triển của hệ thống pháp luật ở nước xã hội chủ nghĩa là khác nhau, sự khác nhau về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội…
Có thể nói rằng: Sự xuất hiện của HTPL xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng, hiện tượng này được bắt đầu từ cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Tuy nhiên, phải vào nửa sau của những năm 30 ở thế kỷ XX thì HTPL xã hội chủ nghĩa mới được hoàn thiện hơn. Sự hoàn thiện này gắn liền với sự hoàn thiện trong HTPL của Xô viết, khi đó sở hữu nhà nước chiếm vị trí độc nhất trong nền kinh tế và hệ tư tưởng Bôn – sê – vích đã thống trị tuyệt đối trong đời sống tinh thần của xã hội, nó bao gồm cả ý thức pháp luật. Mãi đến sau chiến tranh thế giới thứ II, một nhóm các HTPL QG ở Đông Á của dòng họ pháp luật xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện như pháp luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc, pháp luật Bắc Triều Tiên. Nhóm pháp luật này được phát triển trên cơ sở của pháp luật Trung Quốc thời Trung cổ và điều đó quyết định tính đặc thù và vị trí đặc biệt của nó trong quan hệ với nhóm pháp luật châu Âu – Mỹ của HTPL xã hội chủ nghĩa. Với lịch sử xuất hiện ngắn ngủi như vậy, cho nên khi xem xét HTPL xã hội chủ nghĩa ở góc độ lịch sử thì đây là một hiện tượng hết sức non trẻ và những hiểu biết về HTPL này không nhiều.
Đặc điểm của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa
Về cơ bản HTPL xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm sau:
+ HTPL xã hội chủ nghĩa phản ánh rõ mục đích xã hội và tính chất giai cấp, nghĩa là HTPL này thực chất là phương tiện của việc thể hiện và ghi nhận các lợi ích của giai cấp công nhân và của toàn thể nhân dân lao động. Các mục đích mà HTPL này hướng đến để đạt được, cũng như các phương tiện của việc đạt được các mục đích đó được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
+ Chủ nghĩa Mac – Lênin là cơ sở tư tưởng của các HTPL xã hội chủ nghĩa. C.Mác, Ph. Ăng – ghen và V. I. Lênin đã chi rõ các đặc trưng cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa là tính bị quyết định của nó bởi chế độ kinh tế – xã hội của xã hội; tính giai cấp của pháp luật với tư cách là ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế được đưa lên thành luật, là công cụ của quyền lực chính trị của giai cấp đó; khả năng tác động ngược lại một cách đáng kể của pháp luật đối với sự phát triển của các quan hệ kinh tế – xã hội và chính trị.
+ HTPL xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện do kết quả chiến thắng của cách mạng xã hội chủ nghĩa và cuộc cách mạng đó không tùy thuộc vào hình thức thực hiện khác, được thể hiện ở việc giành quyền lực Nhà nước bằng cuộc cách mạng do nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thực hiện.
+ HTPL xã hội chủ nghĩa không xuất hiện tự phát mà là do có sự tác động của Đảng cách mạng. Vai trò lãnh đạo và định hướng của Đảng Mácxit – Lêninnít là điều kiện cơ bản của của sự hình thành hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
+ Các phương thức xuất hiện của HTPL xã hội chủ nghĩa là rất đa dạng, phong phú tùy thuộc vào mối tương quan cụ thể của các lực lượng giai cấp, vào mức độ chống đối của những người bóc lột đã bị đánh đổ, vào các truyền thống pháp lý dân chủ và vào các đặc trưng khác của nước này hay của nước khác.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa không chỉ điều chỉnh các quan hệ bên trong của một xã hội xã hội chủ nghĩa, mà còn điều chỉnh cá các quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy mà HTPL xã hội chủ nghĩa xã hội trở thành hiện tượng mang tính quốc tế.
+ Hầu hết HTPL của các nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa. Chính vì vậy HTPL này cũng mang những điểm giống như HTPL châu Âu lục địa. Đó là, HTPL này có tính pháp điển hóa rất cao, luật thực định ưu thế hơn nhiều so với luật tố tụng, thẩm phán không tham gia vào hoạt động lập pháp và hình thức pháp luật của HTPL xã hội chủ nghĩa là HTPL thành văn nhưng khác với HTPL châu Âu lục địa, cấu trúc pháp luật của HTPL xã hội chủ nghĩa không có sự phân chia pháp luật thành luật công và luật tư. Tuy nhiên, tại một số nước xã hội chủ nghĩa, pháp luật xã hội chủ nghĩa được kết hợp với các truyền thống khác, khiến cho HTPL này chứa đựng nhiều tính chất rất đặc trưng mà đã nghiên cứu ở trên.

 Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua mấy kiểu pháp luật

 Câu hỏi:

  Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua mấy kiểu pháp luật?

  • A. 2 kiểu pháp luật
  • B. 3 kiểu pháp luật
  • C. 4 kiểu pháp luật
  • D. 5 kiểu pháp luật

  

 tag: đen xử khái niệm gdcd 8 sai ví dụ lai