Lao động xuất khẩu của Việt Nam đang ở đâu so với các nước

Lao động xuất khẩu của Việt Nam đang ở đâu so với các nước

 Đổi thay nhờ xuất khẩu lao động

 Đánh giá về công tác xuất khẩu lao động (XKLĐ) trong những năm qua, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh, công tác này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. “Năm 2017, XKLĐ đạt được con số kỷ lục với trên 134 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, vượt 28,3% so với kế hoạch năm. Năm 2018 tiếp tục là một năm thành công trong lĩnh vực XKLĐ với tổng số lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài đạt hơn 142 nghìn người, vượt 30% so với kế hoạch, là năm thứ năm liên tiếp có số lượng vượt mức 100.000 lao động. Riêng 6 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đã được tổng số gần 67 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 55,82% kế hoạch năm 2019. Tính chung từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã đưa được hơn 1 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài”.

 Cùng với số lượng, chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng không ngừng được nâng cao; ngành nghề đưa đi được mở rộng, trong đó có nhiều ngành nghề mới như: Điều dưỡng, hộ lý, lao động trong một số lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, lao động có tay nghề, kỹ thuật cao. Các thị trường chính của Việt Nam tiếp tục được củng cố và tăng cường, đặc biệt là thị trường khu vực Đông Bắc Á, Trung Đông, Malaysia và gần đây là một số thị trường châu Âu cũng có những tín hiệu tích cực về việc tiếp nhận lao động Việt Nam.

 Không chỉ vậy, hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng từng bước đi vào nền nếp. Nhiều doanh nghiệp đã và đang chủ động tìm kiếm, phát triển thị trường, đầu tư bài bản cho công tác tạo nguồn lao động và đào tạo nâng cao tay nghề, ngoại ngữ cho lao động trước khi xuất cảnh. “Hiện nay cả nước đã có 362 doanh nghiệp có giấy phép dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với khoảng 500.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề” – Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà thông tin.

 Hoạt động XKLĐ đã và đang đóng góp quan trọng vào công tác giải quyết việc làm hàng năm, bình quân khoảng 10% tổng số lao động được giải quyết việc làm của cả nước. Với mức thu nhập tốt, nhiều lao động sau khi đi xuất khẩu lao động về nước đã có cuộc sống tốt hơn. “Hiệu quả của chương trình XKLĐ không chỉ được đo, đếm bằng hàng tỷ USD mà người lao động từ hàng chục thị trường ngoài nước gửi về hàng năm, mà còn góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế – xã hội ở các địa phương có đông người đi XKLĐ, làm thay đổi bộ mặt nhiều vùng quê với hệ thống hạ tầng khang trang; cùng với đó là tạo ra một đội ngũ nhân lực chất lượng cao được tôi luyện dài ngày trong môi trường làm việc tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay” – Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà đánh giá.

 Làm rõ thêm về hiệu quả của XKLĐ, GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn – Trường Đại học Thăng Long dẫn báo cáo kết quả giám sát chuyên đề XKLĐ giai đoạn 2013-2017 của Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội: Bình quân thu nhập (kể cả làm thêm) của người lao động đi làm việc ở nước ngoài là 400 – 600 USD/tháng ở thị trường Trung Đông, 700 – 800 USD/tháng ở thị trường Đài Loan (Trung Quốc), 1000 – 1.200 USD/tháng ở thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản.

 Ông cho biết, cơ quan giám sát nhận định sự gia tăng số lượng lao động làm việc ở các thị trường có thu nhập cao đưa Việt Nam trở thành một trong số những nước có lượng kiều hối lớn. Cụ thể, hằng năm, lượng tiền người lao động gửi về nước khoảng 2 – 2,5 tỷ USD, với mức tăng trung bình trong giai đoạn từ 2010-2017 là 6-7%/năm. Riêng tại Hà Tĩnh, theo báo cáo của UBND tỉnh, có năm lượng tiền gửi về nước hơn 4.000 tỷ đồng, xấp xỉ bằng 50% tổng thu nội địa trong tỉnh.

 Lao động mất điểm vì kỷ luật kém

 Trả lời câu hỏi lao động xuất khẩu của Việt Nam đang ở đâu so với các nước? GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng, mặc dù số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài liên tục gia tăng nhanh nhưng chất lượng hiện vẫn còn thấp so với mặt bằng chung các nước trong khu vực.

 Ông ví tiếng Anh là “chìa khóa” để người lao động mở cửa kho báu khi đi làm việc nhưng đây lại là một điểm yếu của lao động di cư Việt Nam. Cụ thể, các ứng viên Việt Nam có điểm trung bình IELTS là 5,78 điểm, thuộc nhóm trung bình thấp, đứng sau Malaysia (6,64 điểm); Philippines (6,53 điểm) và xấp xỉ Indonesia (5,79 điểm).

 Lao động có trình độ chuyên môn cao vẫn chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn. Số lượng kỹ sư và kiến trúc sư đạt tiêu chuẩn ASEAN cũng thấp hơn so với nước bạn như: Indonesia và Myanmar.

 Vẫn theo PGS. TS Nguyễn Cảnh Toàn, sự chuẩn bị của lao động đến làm việc ở ASEAN, Đông Bắc Á nói riêng và các nước khác nói chung còn yếu, thiếu nhiều mặt như: Đào tạo ngôn ngữ, trang bị tối thiểu về luật pháp, văn hóa, phong tục tập quán, lối sống của quốc gia nói trên, nên việc chấp hành luật pháp còn yếu kém; không hiếm xung đột vì độ hòa nhập, thích nghi còn yếu. Hiện tượng bỏ nơi làm việc, tự do làm việc ở nơi khác và trốn ở lại khi quá hạn, gây bức xúc dư luận và nhà cầm quyền nước sở tại, ảnh hưởng không nhỏ cho kế hoạch chung xuất khẩu lao động của Bộ LĐ-TB&XH.

 Đồng tình với những phân tích trên, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh – Phó Chủ tịch Hiệp hội XKLĐ Việt Nam cũng cho rằng, các điểm yếu của lao động Việt Nam là: Ngoại ngữ, ý thức tổ chức kỷ luật, tay nghề.

 Ông đặc biệt đề cập đến tình trạng ý thức tổ chức kỷ luật của lao động Việt Nam kém hơn so với các các nước khác. Điển hình là tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn tại Hàn Quốc vẫn cao dù cả phía Việt Nam và Hàn Quốc đã có nhiều phương án tuyên truyền, kêu gọi lao động về nước đúng hạn hợp đồng. Thực tế, tỷ lệ lưu trú bất hợp pháp cao không chỉ làm xấu hình ảnh người Việt Nam cần cù, chịu khó mà đã làm gián đoạn chương trình hợp tác lao động.

 Trong khi đó, câu chuyện được TS Trần Thị Minh Phương – Trường Đại học Lao động và Xã hội đưa ra là có những bộ phận lao động rủ nhau làm các công việc phi pháp như nấu rượu, buôn bán động vật hoang dã, lập bè nhóm gây mất đoàn kết, đánh chửi nhau… Những hiện tượng xấu khác là gây mất trật tự, mất vệ sinh, hút thuốc lá nơi ở, nơi công cộng, trốn vé tàu, xe, lừa lách vé cước điện thoại, Internet…

 Dưới góc độ cơ quan quản lý, ông Nguyễn Gia Liêm, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước chia sẻ, theo quy định của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, cùng với yêu cầu của thị trường lao động ngoài nước, các doanh nghiệp đã chủ động trong việc tổ chức đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Thế nhưng, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài, hoặc thông qua hoạt động đào tạo nghề, ngoại ngữ cho người lao động đề kinh doanh dịch vụ đào tạo làm tăng chi phí của người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

 Định hướng về việc sửa đổi luật thời gian tới, ông cho biết, một trong những vấn đề được quan tâm là về công tác đào tạo nghề và bồi dưỡng kiến thức. Theo đó, sẽ sửa đổi, bổ sung những quy định về dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài cho phù hợp, nhằm khai thác có hiệu quả hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã được đầu tư trong thời gian qua, đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động kỹ thuật của các thị trường tiếp nhận.

 Song song đó là sửa đổi, bổ sung quy định bắt buộc về trình độ ngoại ngữ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Đặc thù của các thị trường Xuất khẩu lao động ngoài nước

 Hiện nay, có khoảng 500.000 lao động nước ta đang làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những nước, vùng lãnh thổ nhận số lượng lớn lao động Việt Nam như: Nhật Bản, Malaysia, Đài Loan và Hàn Quốc. Chỉ tính từ năm 2001 đến nay, bình quân mỗi năm nước ta đã đưa được khoảng trên 60.000 lao động, riêng trong 5 năm trở lại đây con số đó là gần 80.000 lao động, chiếm hơn 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm hàng năm. Ngoài ra, hiện nay có 80 chuyên gia giáo dục làm việc tại các cơ sở đào tạo của Angola, 200 chuyên gia y tế làm việc tại Algeria, Mozambique và Angola, 65 chuyên gia nông nghiệp làm việc tại một số quốc gia Châu Phi trong khuôn khổ hợp tác 3 bên giữa Việt Nam – FAO và các nước này. Nhu cầu nhận chuyên gia ở khu vực còn lớn, chúng ta cần nghiên cứu để có chính sách đầu tư, hỗ trợ để thúc đẩy hoạt động này.

 Đặc thù của một số thị trường

 Thị trường Hàn Quốc:

 Trước đây, ta đưa lao động sang Hàn Quốc theo hình thức tu nghiệp sinh thông qua một số doanh nghiệp dịch vụ. Từ năm 2004, theo Luật Cấp phép việc làm cho người lao động nước ngoài của Hàn Quốc, hai bên đã ký thỏa thuận về đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này theo hình thức phi lợi nhuận, người lao động chỉ phải chịu chi phí 700 USD trước khi đi. Tỷ lệ hồ sơ dự tuyển của lao động Việt Nam gửi đi được người sử dụng lao động lựa chọn tiếp nhận là 85%, cao nhất trong số 15 quốc gia đưa lao động sang Hàn Quốc. Tính đến nay, đã có khoảng 43.000 lao động Việt Nam được đưa đi làm việc theo chương trình này. Hiện đang có khoảng 50.000 lao động Việt Nam làm việc tại đây, hàng năm gửi về nước trên 700 triệu Đô la Mỹ.

 Lao động ta làm việc tại đây chủ yếu trong các nhà máy công nghiệp (khoảng 87%), số còn lại làm việc trong các ngành nông nghiệp, xây dựng và thủy sản. Người lao động có điều kiện bảo đảm, việc làm ổn định và thu nhập cao, bình quân khoảng hơn 1.000 USD/tháng.

 Thị trường Nhật Bản

 Nhật Bản không nhận lao động nước ngoài tay nghề thấp vào làm việc, mà chỉ tiếp nhận lao động thực tập, nâng cao tay nghề (gọi là thực tập sinh). Việt Nam đã đưa thực tập sinh sang Nhật Bản từ năm 1992, song tình trạng tự ý bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc với tỷ lệ cao đã làm ảnh hưởng không tốt đến việc mở rộng thị trường, nên hàng năm chỉ đưa được khoảng 3.000 người. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2005/NĐ-CP về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài (các quy định của văn bản này đã được đưa vào luật) và Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo và tăng cường công tác quản lý nên tỷ lệ lao động tự ý bỏ hợp đồng đã giảm rõ rệt, từ khoảng 30% trong các năm trước xuống còn khoảng 2%, nhờ vậy, số lượng tu nghiệp sinh đưa đi hàng năm đã tăng rõ rệt.

 Ngoài việc đưa đi thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, Việt Nam còn hợp tác với Tổ chức Phát triển nhân lực quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản (IMM Japan) để đưa tu nghiệp sinh sang Nhật theo hình thức phi lợi nhuận. Chương trình này đã giúp nhiều đối tượng chính sách, lao động thuộc các tỉnh có khó khăn được đi tu nghiệp tại Nhật. Tu nghiệp sinh tại Nhật Bản có điều kiện sinh hoạt và làm việc tốt, thu nhập bình quân khoảng 1.200 – 1.500USD/tháng. Hiện nay, có khoảng hơn 30.000 tu nghiệp sinh ở Nhật Bản, hàng năm gửi về nước khoảng hơn 500 triệu Đô la Mỹ.

 Thị trường Đài Loan:

 Bắt đầu từ cuối năm 1999, đến nay đã đưa được trên 200 nghìn lượt lao động sang làm việc. Trước đây, lao động ta cũng bỏ hợp đồng ra ngoài với tỷ lệ lớn, dẫn đến từ đầu năm 2005 Đài Loan buộc phải tạm dừng nhận lao động chăm sóc người bệnh và phục vụ trong các gia đình. Trước tình hình đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo các doanh nghiệp tăng cường khai thác hợp đồng đưa lao động sang làm việc trong các ngành sản xuất công nghiệp, thu nhập khoảng 700USD/tháng.

 Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, nhiều lao động ta thiếu việc làm, giảm thu nhập và phải về nước trước hạn (từ cuối năm 2008 đến quý II năm 2009 có khoảng 5.500 người về nước trước hạn). Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang chỉ đạo phối hợp với phía Đài Loan thực hiện các giải pháp bảo đảm quyền lợi cho người lao động.

 Thị trường Malaysia:

 Malaysialà một thị trường có nhu cầu nhận rất nhiều lao động nước ngoài. Ta bắt đầu đưa lao động sang từ cuối năm 2002 theo thỏa thuận giữa hai Chính phủ và hiện có khoảng 90.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại nước này.
Malaysia không yêu cầu cao về chất lượng lao động, chi phí trước khi đi thấp, phù hợp với lao động ở các vùng nông thôn, thu nhập khoảng 3,5 – 5 triệu đồng/tháng. Từ năm 2002 đến đầu năm 2007, ta đã đưa số lượng lớn lao động sang thị trường này. Tuy nhiên, từ năm 2007, do sự thay đổi chính sách của nước sở tại, một số ngành kinh tế giảm nhu cầu lao động, dẫn đến nhiều lao động nước ngoài (trong đó có lao động Việt Nam) gặp khó khăn trong việc làm và thu nhập, một bộ phận phải về nước trước thời hạn. Bên cạnh đó, một số phương tiện thông tin đại chúng trong nước đã đưa nhiều thông tin tiêu cực về thị trường này, làm người lao động hoang mang, không muốn đi, do đó, trong hai năm 2008 và 2009, số lao động đi làm việc tại Malaysia đã giảm đi rõ rệt so hàng chục nghìn người của những năm trước đó. Từ nửa cuối năm 2009, thị trường Malaysia đã phát triển trở lại, cùng với đó, nhu cầu lao động của thị trường này rất lớn, thu nhập được nâng cao hơn. Chính phủ Malaysia cũng đưa ra một số chính sách giảm chi phí và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động nước ngoài. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã lựa chọn những hợp đồng tốt, thu nhập khá và ổn định để đưa lao động đi. Hiện nay, tình hình lao động ta làm việc tại Malaysia đã ổn định, thu nhập tốt, hầu như không có vụ việc lớn phát sinh. Đặc biệt là kể từ khi triển khai thực hiện Quyết định số 71 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 – 2020, công tác thông tin tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt là đối với những thị trường “dễ tính” như Malaysia đã được triển khai mạnh, nên số đăng ký tham gia đã tăng lên rất nhiều. Khoảng một nửa trong số trên 2.500 lao động các huyện nghèo đang làm việc tại Malaysia đều có điều kiện làm việc bảo đảm, thu nhập khá, hàng tháng tiết kiệm được khoảng 4 triệu đồng. Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang chỉ đạo các doanh nghiệp tăng cường khai thác các hợp đồng có điều kiện tốt, phối hợp với các địa phương tuyển chọn lao động đưa đi.

 Thị trường Trung Đông và Bắc Phi:

 Trung Đông là thị trường thu hút nhiều lao động Việt Nam trong những năm gần đây, đặt biệt là Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất (UAE), Arập Xê út, Ca-ta, Bahrain, Oman. Hiện nay có khoảng 22.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại khu vực này, điều kiện làm việc và thu nhập tương đối bảo đảm và ổn định (lao động phổ thông thu nhập khoảng 300USD/tháng, lao động có nghề khoảng 500-800USD/tháng). Tuy nhiên, tại Ca-ta có một số lao động tay nghề thấp, ý thức kỷ luật chưa cao, trong khi điều kiện ăn ở và thu nhập chưa tốt nên đã có các hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm hợp đồng như đình công, đánh nhau, trộm cắp… nên phía bạn đang thực hiện một số biện pháp hạn chế nhận lao động Việt Nam. Bắt đầu từ năm 2008, thị trường Lybia đã phát triển mạnh và ta đã đưa được khoảng 3.500 lao động, hiện có khoảng 7.000 lao động đang làm việc tại đây. Yêu cầu về chất lượng lao động của thị trường này không cao trong khi thu nhập tốt (hàng tháng người lao động tiết kiệm và gửi về nước được khoảng 5 triệu đồng). Vừa qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phê duyệt Đề án phát triển thị trường Lybia, theo đó các doanh nghiệp đưa lao động sang thị trường này phải dành ít nhất 30% số lao động của hợp đồng để tuyển từ 62 huyện nghèo và phải có bộ máy quản lý theo quy định (cán bộ quản lý, đốc công…)

 Thị trường Nga và các nước SNG:

 Sau một thời gian dài đình trệ, năm 2007 và nửa đầu năm 2008, nhiều doanh nghiệp của ta đã ký được các hợp đồng với điều kiện tốt để đưa lao động sang làm việc tại Liên bang Nga, Belarus và Ucraina trong các ngành nghề xây dựng, sản xuất chế tạo (lắp ráp điện tử, sản xuất ô tô,..) và may mặc. Trong hai năm vừa qua, đã đưa được hơn 1.000 lao động sang Nga và các nước SNG với thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 300 USD. Tuy nhiên, do cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính vừa qua nhiều lao động của ta đã phải về nước trước thời hạn do thiếu việc làm.

 Thị trường các nước châu Âu khác:

 – Thị trường Cộng hòa Séc: Từ cuối năm 2006 đến nay, ta đã đưa được khoảng 2.000 lao động sang làm việc trong các nghề cơ khí, điện tử, may mặc, thu nhập bình quân khoảng 500USD/tháng. Tuy nhiên, từ năm 2008 do phía Séc thắt chặt quy định cấp visa lao động Việt Nam nên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo không tuyển lao động mới đi Séc.

 Gần đây ta đã tiếp tục mở thêm một số thị trường mới ở châu Âu, như Cộng hòa Slovakia, Bungaria, Rumania, Ba Lan… là những nơi cần lao động có nghề, có triển vọng phát triển nếu ta có nguồn lao động phù hợp. Bên cạnh đó, ta cũng đã bắt đầu đưa lao động hái quả thời vụ sang làm việc tại Phần Lan, Thụy Điển nhưng kết quả chưa khả quan.

 Thị trường Hoa Kỳ và Canada:

 Từ cuối năm 2004, đầu năm 2005, một số doanh nghiệp XKLĐ đã tìm hiểu và ký kết hợp đồng để đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại hai nước này, nhưng do một số khó khăn như yêu cầu chất lượng lao động (ngoại ngữ, tay nghề,…) và khâu thủ tục xin visa, nên mới có một số doanh nghiệp đưa được một số lao động sang các thị trường lao động này mặc dù điều kiện làm việc, sinh hoạt ở đây khá tốt, thu nhập cao.

  

  

  

  

 Tag: đơn ty đảo singapore uy gì cổ mại sơn phú thọ thái nguyên canada hoàng thanh new zealand úc quang quảng trị hải dương danh esuhai diễn đàn rumani ninh cty giang lộc vĩnh phúc lạng banner yên bái lương vinaconex tracodi thừa thiên huế trực miễn lai coông lào thạch ngạn ktm biên xương nauy phòng kạn tms hưng hoằng tnhh động-thương du lịch oleco tân (suleco) hogamex lò nghệ an sông lô bhxh thuế cá giaấy