Mô hình quản lý công mới

 Quản lý công là gì

Quản lý công là một ngành quản lý hành chính nhà nước, thực hiện bởi các công chức nhà nước và những người làm việc trong cơ quan, tổ chức công ở mọi cấp của chính phủ.

 Mô hình quản lý công mới

 Quản lý công mới(New Public Managerment) và quản trị nhà nước tốt( Good Governance) đều có bản chất là hướng tới xây dựng một nền hành chính minh bạch, tinh gọn, năng động và hiệu quả, nó hướng đến phục vụ công dân thay vì cai trị nhân dân như trong mô hình hành chính công truyền thống.

 Đây là những xu hướng cải cách hành chính đã xuất hiện khoảng 30 năm trở lại đây trên thế giới và ngày càng mở rộng như là xu thế tất yếu của thời đại. Nếu quản lý công mới nhấn mạnh đến sự tham gia của khu vực tư vào khu vực công, vận dụng những nguyên tắc của thị trường vào hoạt động cuả chính phủ, phi tập trung hóa và phi quy chế hóa, khoa học hóa quy trình quản lý, các quyết sách chính trị-hành chính để hướng đến một nền hành chính năng động, hiệu quả. Thì mô hình quản trị nhà nước tốt( Good Governance) hướng đến các giá trị: Mở rộng sự tham gia của công dân vào hoạt động quản lý nhà nước(participatory), Hoạch định chính sách trên nguyên tắc đồng thuận xã hội(consensus oriented), xây dựng một nền hành chính có trách nhiệm(accountable) và minh bạch (transparent), Trách nhiệm giải trình (responsive), hiệu quả và hiệu lực(effective and efficient), công bằng, toàn diện(equitable and inclusive) và tuân thủ luật pháp  (follows the rule of law).

 Ở nước ta hiện nay, công cuộc phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng XHCN gắn liền với sự thay đổi căn bản vai trò của Nhà nước và phương thức hoạt động của nền hành chính quốc gia. Sau gần 20 năm thực hiện, CCHC tại Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ: Hệ thống thể chế trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước đã từng bước hình thành và hoàn thiện theo hướng đồng bộ hơn, phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Hệ thống thủ tục hành chính từng bước được cải cách theo hướng đơn giản hoá, công khai hoá, nâng cao hiệu quả giải quyết công việc của các cơ quan công quyền nhà nước trong quan hệ với nhân dân và doanh nghiệp. Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước đã được thay đổi căn bản từ chỗ chủ yếu sử dụng mệnh lệnh hành chính với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới trong quản lý kinh tế sang xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh. Tổ chức bộ máy của Nhà nước đã được cải cách theo hướng tinh giản hơn; việc phân cấp giữa các yếu tố, phân hệ trong bộ máy quản lý Nhà nước cũng từng bước được cải thiện, tạo điều kiện cho mỗi cấp, mỗi tổ chức trong hệ thống đề cao quyền hạn, trách nhiệm đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo trong công việc. Đội ngũ công chức Nhà nước đã được quan tâm xây dựng, bồi dưỡng về năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân… Những cải cách trên đây đã góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong thời gian qua, đồng thời làm cho bộ máy Nhà nước trở nên gần dân hơn, khắc phục nhiều bất cập vốn có trong thời cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.

 Tuy nhiên, nền hành chính vẫn đang còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng đòi hỏi của nhịp điệu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ mới. Do những bất cập này, việc áp vận dụng quản lý công mới và quản trị nhà nước tốt vào nước ta trong giai đoạn tới sẽ gặp những khó khăn, thách thức như:

 – Cho đến nay vẫn chưa tạo lập được một hệ thống thể chế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế và tiến bộ khoa học công nghệ của thế giới hiện đại. Hiện vẫn chưa xác định được một cách đầy đủ, rõ ràng về khung khổ thể chế cần phải có cho quản lý các hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước trong điều kiện mới. Những bổ sung, sửa đổi về mặt thể chế mặc dù rất tích cực nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế; mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi thể chế cũ – thể chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.

 – Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều phức tạp, rườm rà, gây không ít phiền toái cho doanh nghiệp và người dân; chủ yếu vẫn theo cơ chế “xin – cho”. Cơ chế “một cửa” tuy được triển khai rất rộng rãi nhưng còn mang tính hình thức, chưa có chuyển biến thực sự về chất trong quan hệ giữa Nhà nước với công dân.

 – Việc điều chỉnh, đổi mới chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính Nhà nước cũng như của từng cấp, từng cơ quan hành chính còn rất chậm, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa phù hợp với thông lệ chung của thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hiện nay bộ máy hành chính Nhà nước, từ Chính phủ đến chính quyền địa phương còn ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản xuất, kinh doanh và hoạt động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Hiện vẫn chưa có sự phân biệt rõ vai trò, chức năng của ba khu vực: Nhà nước – Thị trường – Xã hội dân sự, kể cả trong lĩnh vực thể chế cũng như trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước.

 – Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước vẫn đang còn rất cồng kềnh, đồ sộ, nhiều tầng cấp trung gian. Việc phân cấp Trung ương – địa phương vẫn rất chậm chạp. Cho đến nay, các Bộ ngành vẫn đang nắm giữ nhiều việc cụ thể của chính quyền địa phương làm hạn chế tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Các Bộ vẫn được tổ chức theo mô hình Bộ đơn ngành, đơn lĩnh vực, cơ cấu tổ chức bên trong của các Bộ, số lượng cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện lại đang có xu hướng tăng thêm đầu mối. Bộ máy cồng kềnh, nhiều đầu mối như hiện nay tất yếu dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức năng, thẩm quyền và sức ỳ, sự trì trệ, quan liêu của bộ máy là không thể tránh khỏi.

 – Phương thức quản lý điều hành của bộ máy hành chính các cấp vẫn theo chế độ làm việc tập thể, quyết định theo đa số có nhiều hạn chế nhưng chậm được thay đổi. Hoạt động quản lý điều hành hành chính, cũng như các dạng quản lý điều hành khác, đòi hỏi phải theo chế độ thủ trưởng, phải đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu thì mới đảm bảo nhanh nhạy, hiệu lực, hiệu quả.

 – Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước. Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật tiến hành chưa nghiêm minh, chưa thường xuyên, thiếu khách quan, công bằng dẫn đến kém hiệu quả, ít tính giáo dục, răn đe, làm gương…Do vậy đạo đức công vụ, trách nhiệm của công chức chậm được nâng cao. Một bộ phận cán bộ, công chức sa sút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu của dân, của xã hội.

 – Về thực hiện yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính còn chậm, chưa có sự thay đổi cơ bản trong phương thức lề lối làm việc của cơ quan hành chính và phong cách thực thi công vụ của cán bộ, công chức mà vẫn mang nặng dấu ấn của cơ chế cũ. Khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính còn nhiều hạn chế làm cho năng suất lao động, hiệu quả công tác của công chức thấp, trình độ ngoại ngữ và tin học của đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu kém, nhất là trước yêu cầu hội nhập quốc tế.

 – Sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế nhiều khi thái quá và vô lý.

 Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Hệ thống pháp luật kinh tế trong cơ chế thị trường đã có bước phát triển, tuy nhiên vẫn chưa đồng bộ; Vai trò của Nhà nước với tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều khi bị nhầm lẫn với vai trò Nhà nước là chủ đầu tư, điều này làm cho các kế hoạch của Nhà nước thiếu tính hướng dẫn nền kinh tế gắn với vận dụng nguyên tắc thị trường mà nặng về phân bổ đầu tư Nhà nước; hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ và các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại vẫn còn lạc hậu chứa nhiều nội dung mang tính bao cấp, bảo hộ hoặc thiên vị quá mức.

 Trong điều kiện thực thi pháp luật của bộ máy Nhà nước chưa cao, những điều trên đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp hành chính thái quá, trái thẩm quyền, trái pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mưu cầu lợi ích cục bộ.

 – Sự thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm giải trình và khả năng tiên liệu thấp của hệ thống thể chế và nền hành chính.

 Tính công khai, minh bạch của hệ thống thể chế và nền hành chính là yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với mỗi quốc gia trong quá trình gia nhập WTO. Tính minh bạch của hệ thống pháp luật bao gồm những yếu tố như sự công khai, sự chính xác, sự ổn định và khả năng tiên liệu được của những thay đổi trong chính sách và pháp luật và mục đích rõ ràng của chúng. Về khía cạnh công khai thì hệ thống pháp luật nước ta đã có những tiến bộ rõ nét, nhưng xét ở tính chính xác và ổn định thì hệ thống pháp luật và chính sách cần được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa, bởi vì sự thay đổi các văn bản pháp luật diễn ra khá thường xuyên và khả năng tiên liệu được của các văn bản pháp luật ở mức độ rất thấp. 

 – Tình trạng cơ quan nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho nhân dân và doanh nghiệp vẫn còn nặng nề

 Việc giảm thiểu và từng bước xoá bỏ tình trạng các cơ quan nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho nhân dân và doanh nghiệp vừa là phương tiện vừa là mục đích của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta. Trong những năm qua, với những nỗ lực đáng kể từ cải cách thể chế, thủ tục, bộ máy cho đến hoàn thiện đội ngũ công chức, nước ta đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận về phương diện này, điển hình là việc thực hiện Luật Doanh nghiệp và việc áp dụng thí điểm cơ chế “một cửa” tại nhiều địa phương. Tuy nhiên, tình trạng người dân và doanh nghiệp bị gây khó dễ, sách nhiễu bởi các quy định, quy trình, thủ tục phiền hà cùng với nạn quan liêu, hách dịch, thiếu trách nhiệm, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn khá phổ biến, có chiều hướng gia tăng hoặc thành thông lệ, ảnh hưởng xấu, thậm chí nghiêm trọng, đến tình hình kinh tế và xã hội. Cho đến nay chi phí và thời gian gia nhập thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ở mức cao nhất so với các nước trong khu vực; trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp cũng gặp phải rất nhiều rào cản từ những can thiệp gây khó dễ của các cơ quan nhà nước, nhất là tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp.

 Sự thay đổi mạnh mẽ của đất nước trong giai đoạn tới cùng với nhũng biến động của bối cảnh quốc tế đặt ra những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi công cuộc Cả cách hành chính, vận dụng những nguyên tắc của “Quản lý công mới” và “Quản trị nhà nước tốt” trong giai đoạn tới phải thay đổi hẳn phương hướng và cách thức tiến hành. 

 – Trước hết đó là sự chuyển đổi mạnh về chất sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường sẽ tác động sâu sắc và đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói riêng, đòi hỏi phải chuyển mạnh từ nền hành chính “cai trị” sang nền hành chính “phục vụ”, xóa bỏ triệt để cơ chế “xin – cho”, phải khắc phục sự can thiệp trực tiếp, tuỳ tiện vào các hoạt động của doanh nghiệp, phải tôn trọng và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong mọi hoạt động kinh tế – xã hội; Kinh tế thị trường đòi hỏi Nhà nước và nền hành chính phải thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững kinh tế đất nước, phải đối xử bình đẳng với các thành phần kinh tế khác nhau, tạo ra “sân chơi”, “luật chơi” phù hợp với quy luật của thị trường và thực hiện tốt vai trò của người “trọng tài” khách quan, công bằng trong việc kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật, chính sách của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế – xã hội.

 – Trong giai đoạn 2011-2020, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện. Trong điều kiện kinh tế mở, có tính toàn cầu, đòi hỏi phải nhanh chóng tạo lập đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế, thể chế hành chính phù hợp với thông lệ chung của thế giới; phải đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ, năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức để có thể hòa nhập vào cộng đồng quốc tế, cộng đồng khu vực, trong khi Việt Nam đang ở một khoảng cách khá xa so với thế giới.

 – Cùng với quá trình cải cách kinh tế và hội nhập, quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội cũng đã trở thành một xu thế không thể cưỡng lại được. Kết quả của nó đặt ra những yêu cầu cao hơn về phát huy dân chủ cơ sở, đòi hỏi thu hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, đòi hỏi phải đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng như trong thực thi công vụ, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước và các công chức trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn phương thức hoạt động.

 – Sự phát triển nhanh của tiến bộ khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu cao về hiện đại hóa nền hành chính quốc gia. Yêu cầu về xây dựng Chính phủ điện tử, hiện đại hóa nền hành chính xây dựng được phương thức thanh toán có kiểm soát (qua tài khoản, thẻ tín dụng…thay vì thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt như hiện nay) nâng cao trình độ của đội ngũ công chức hành chính  đang tác động mạnh mẽ đến mọi cấp. Trong khi đó ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành chính cũ đang in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội công chức trong bộ máy và đang là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách hành chính nhà nước hiện nay. Nếu không có một quyết tâm cao, cũng như các giải pháp mạnh, có tính cách mạng thì sẽ dẫn đến tình trạng “bình mới rượu cũ” trong nội dung và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính.

 – Sự lúng túng, chưa đủ rõ về mặt lý luận đối với những vấn đề rất cơ bản, rất hệ trọng trong đường lối, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, trong phát triển khu vực xã hội dân sự cũng là những thách thức đáng kể đối với việc hoạch định các chủ trương, phương hướng tổng thể cho công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở nước ta theo mô hình “ Hành chính phát triển” trong giai đoạn tới.

  

  

  

  

  

  

  

 Tag: thạc sĩ khái niệm phá pdf 3