Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

 Agribank – Ngân hàng Thương mại hàng đầu Việt Nam

 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) được thành lập theo Nghị định số 53-HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Trải qua mỗi thời kỳ phát triển với những tên gọi gắn với sứ mệnh khác nhau, xuyên suốt 32 năm xây dựng và phát triển, Agribank luôn khẳng định vị thế, vai trò của một trong những Ngân hàng Thương mại hàng đầu Việt Nam, đi đầu thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng, luôn đồng hành cùng sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, có nhiều đóng góp tích cực thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, xây dựng nông thôn mới và bảo đảm an sinh xã hội.

 Thời kỳ đầu mới thành lập với điểm xuất phát thấp, tổng tài sản chưa tới 1.500 tỷ đồng; tổng nguồn vốn 1.056 tỷ đồng, trong đó vốn huy động chiếm 42%, còn lại 58% vay từ Ngân hàng Nhà nước; tổng dư nợ 1.126 tỷ đồng; tỷ lệ nợ xấu trên 10%; khách hàng là những doanh nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã phần lớn làm ăn thua lỗ, sáp nhập, giải thể, tự tan rã… Sau 32 năm xây dựng và trưởng thành, đến nay, Agribank là NHTM Nhà nước hàng đầu Việt Nam trên mọi phương diện, là NHTM duy nhất Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Agribank có gần 2.300 chi nhánh, phòng giao dịch có mặt khắp mọi vùng, miền, là NHTM duy nhất có mặt tại 9/13 huyện đảo, gần 40.000 cán bộ, người lao động. Đến 31/12/2019, tổng tài sản đạt trên 1,45 triệu tỷ đồng; Nguồn vốn đạt trên 1,34 triệu tỷ đồng; Tổng dư nợ và đầu tư đạt trên 1,3 triệu tỷ đồng, trong đó cho vay nền kinh tế đạt trên 1,12 triệu tỷ đồng. Dư nợ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn luôn chiếm tỷ trọng trên 70%/tổng dư nợ. Vốn tín dụng Agribank chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ gần 2 triệu tỷ đồng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Việt Nam.

 Là một trong các ngân hàng thương mại nhà nước đóng vai trò chủ lực trong hệ thống ngân hàng, Agribank luôn phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của một Ngân hàng thương mại Nhà nước trong việc dẫn dắt hệ thống các tổ chức tín dụng thực thi nghiêm túc, có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia và các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về tiền tệ, ngân hàng, nhất là chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Agribank đang triển khai hiệu quả 07 chương trình tín dụng chính sách (Cho vay theo chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Cho vay hộ gia đình, cá nhân thông qua Tổ vay vốn/tổ liên kết; Cho vay theo chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp; Cho vay gia súc, gia cầm; Cho vay tái canh cà phê; Cho vay chính sách phát triển thủy sản; Tín dụng ưu đãi phục vụ “Nông nghiệp sạch”) và 02 Chương trình mục tiêu Quốc gia (xây dựng Nông thôn mới, giảm nghèo bền vững).

 Agribank không ngừng đơn giản hóa thủ tục cho vay, cải tiến mô hình, phương thức cho vay, kết hợp với chính quyền địa phương, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, các tổ chức chính trị – xã hội triển khai trên 68.000 tổ vay vốn với gần 1,5 triệu thành viên; Triển khai an toàn 68 Điểm giao dịch lưu động bằng ô tô chuyên dùng với gần 8.200 phiên giao dịch, phục vụ hơn 800 nghìn khách hàng tại trên 400 xã trên toàn quốc, tạo điều kiện thuận lợi đối với hộ gia đình, cá nhân ở vùng sâu, vùng xa tiếp cận vốn vay và dịch vụ ngân hàng. Triển khai chương trình tín dụng tiêu dùng, đến nay doanh số cho vay chương trình đạt trên 7.400 tỷ đồng với 193.000 hộ gia đình, cá nhân được bổ sung vốn phục vụ nhu cầu hợp pháp và cấp thiết, nâng cao đời sống của người dân tại các địa bàn nông thôn…

 Hoạt động phát triển SPDV được Agribank xác định lấy khách hàng là trung tâm, mở rộng cơ sở khách hàng, phát triển khách hàng mở tài khoản và sử dụng dịch vụ tiện ích, Agribank chính thức triển khai Đề án đẩy mạnh phát triển dịch vụ thẻ tại thị trường nông nghiệp, nông thôn, với mục tiêu gia tăng sự tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các cá nhân, gia đình cũng như các dịch vụ thanh toán văn minh, hiện đại trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam. Thông qua các chương trình tín dụng và cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích, Agribank đã cơ bản đáp ứng đủ vốn với lãi suất cho vay ưu đãi, phục vụ kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, góp phần chung tay cùng các cấp, các ngành đẩy lùi tình trạng tín dụng đen, đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của NHTM Nhà nước trong việc cung ứng vốn và SPDV ngân hàng tiện ích phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân theo đúng mục tiêu cơ cấu lại, góp phần tạo những bước bứt phá trong tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam.

 Thông qua chủ động thực hiện đầu tư tín dụng và cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích, Agribank đang mở ra cơ hội cho hàng triệu người nông dân Việt Nam được tiếp cận với kỹ thuật nông nghiệp hàng đầu trên thế giới, ứng dụng thành quả cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào sản xuất, kinh doanh, góp phần đưa nền nông nghiệp Việt Nam có những bước tiến lớn trong gia nhập “sân chơi” toàn cầu.

 Bên cạnh hoạt động kinh doanh, Agribank rất quan tâm đến công tác hỗ trợ an sinh xã hội với nhiều dự án, chương trình tài trợ tổng thể và dài hạn trên khắp cả nước, thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng, góp phần tích cực thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới theo chủ trương của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

 Trải qua 32 năm xây dựng và trưởng thành, Agribank duy trì được sự tăng trưởng ổn định cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng và hiệu quả hoạt động. Nhiều năm liên tiếp, Agribank nằm trong Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam và đạt nhiều giải thưởng do các tổ chức quốc tế trao tặng. Đặc biệt, đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập 26/3/2018, Agribank vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất – phần thưởng cao quý nhất của Đảng, Nhà nước Việt Nam dành cho  tập thể có công lao đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, thành tích xuất sắc phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong thời kỳ đổi mới.

 Năm 2019, Agribank tiếp tục được khẳng định là Quán quân các NHTM được vinh danh vị trí thứ 8 trong Bảng xếp hạng VNR500; được tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố mức xếp hạng của Agribank là Ba3, tương đương mức tín nhiệm quốc gia và là mức xếp hạng cao nhất đối với các NHTM ở Việt Nam. Agribank được xếp hạng thứ 142/500 ngân hàng lớn nhất Châu Á về quy mô tài sản. Hiện Agribank đang tập trung triển khai có hiệu quả Chiến lược kinh doanh giai đoạn 2016- 2020, tầm nhìn 2030, thực hiện thành công tái cơ cấu giai đoạn 2 gắn với nhiệm vụ đẩy nhanh tiến trình thực hiện kế hoạch cổ phần hóa Agribank theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tiếp tục giữ vững vị trí, vai trò chủ lực trên thị trường tài chính nông nghiệp, nông thôn, đóng góp tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

 Lịch sử

  • 2019

     Tổng tài sản đạt trên 1,45 triệu tỷ đồng; Nguồn vốn đạt trên 1,34 triệu tỷ đồng; Tổng dư nợ và đầu tư đạt trên 1,3 triệu tỷ đồng, trong đó cho vay nền kinh tế đạt trên 1,12 triệu tỷ đồng. Dư nợ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn luôn chiếm tỷ trọng trên 70%/tổng dư nợ.

     Năm 2019, Agribank tiếp tục được khẳng định là Quán quân các NHTM được vinh danh vị trí thứ 8 trong Bảng xếp hạng VNR500; được tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố mức xếp hạng của Agribank là Ba3, tương đương mức tín nhiệm quốc gia và là mức xếp hạng cao nhất đối với các NHTM ở Việt Nam; Agribank được xếp hạng thứ 142/500 ngân hàng lớn nhất Châu Á về quy mô tài sản; Giữ vững vị thế TOP 3 ngân hàng thương mại dẫn đầu trên thị trường thẻ; Vinh dự đón nhận các giải thưởng: Ngân hàng hỗ trợ đầu tư nông nghiệp công nghệ cao tiêu biểu năm 2019, Ngân hàng tiêu biểu vì cộng đồng năm 2019, Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2019, Top 20 doanh nghiệp nộp thuế lớn nhất Việt Nam, 02 Giải thưởng Sao Khuê 2019 dành cho hạng mục hệ thống công nghệ thông tin xuất sắc trong lĩnh vực ngân hàng đối với 02 sản phẩm Hệ thống thanh toán Kiều hối tập trung (ARS) và Hệ thống thanh toán hóa đơn (Bill Payment), Giải thưởng thương hiệu Quốc gia (đối với 05 sản phẩm: Thẻ chip EMV, Agribank E-Mobile Banking, AgriTax, Thanh toán biên mậu qua Internet Banking, Cho vay nông nghiệp).

  • 2018

     Tổng tài sản đạt gần 1,3 triệu tỷ đồng, nguồn vốn huy đạt trên 1,2 triệu tỷ đồng, tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt trên 1,1 triệu tỷ đồng, trong đó dư nợ nông nghiệp, nông thôn chiếm 73,6%/tổng dư nợ và chiếm 51% thị phần tín dụng của ngành Ngân hàng đầu tư lĩnh vực này.

     Các giải thưởng: Huân chương Lao động hạng Nhất; Top 50 Doanh nghiệp thành tựu theo bảng xếp hạng VNR500 (dẫn đầu các NHTM trong Bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2018, đứng thứ 7 trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam); Thương hiệu quốc gia 2018; Giải “Sao khuê 2018” với Hệ thống/Phần mềm CNTT xuất sắc trong lĩnh vực tài chính ngân hàng; “Chất lượng thanh toán xuất sắc năm 2018” do Ngân hàng J.P.Morgan trao tặng; Top 3 ngân hàng dẫn đầu thị trường thẻ; Được tổ chức xếp hạng quốc tế Fitch Ratings nâng mức đánh giá xếp hạng tự nguyện về Nhà phát hành nợ dài hạn từ mức “B+” lên “BB-” với triển vọng “Ổn định”; Tạp chí The Banker bình chọn Agribank đứng thứ 465 trong Top 1.000 ngân hàng lớn nhất thế giới và xếp thứ 2 quốc gia năm 2018…

  • 2017

     Tập trung đẩy mạnh việc triển khai dự án E-Banking để xây dựng nền tảng dịch vụ đa kênh hoàn chỉnh, giúp khách hàng có thể sử dụng dịch vụ ngân hàng qua nhiều kênh khác nhau, đặc biệt là Internet Banking và Mobile Banking.

     Thực hiện Nghị quyết số 30/2017/NQ-CP của Chính phủ về gói tín dụng 100.000 tỷ đồng dành cho nông nghiệp sạch từ nguồn vốn vay thương mại, Agribank đã dành 50.000 tỷ đồng để thực hiện chương trình, với lãi suất cho vay giảm 0,5%-1,5%/năm so với lãi suất ưu đãi cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn theo quy định hiện hành của NHNN và Agribank.

  • 2016

     Tháng 8

     Agribank ký thỏa thuận với Văn phòng điều phối Nông thôn mới Trung ương về việc hợp tác trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.

     Tháng 9

     Agribank tiếp tục ký kết thỏa thuận liên ngành với các hội: Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

     Agribank nhận giải thưởng Sao Khuê 2016 cho hai ứng dụng phần mềm xuất sắc trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng là Agribank E-Mobile Banking và Hệ thống phát hành và thanh toán thẻ Chip theo chuẩn EMV.

     Trong năm 2016

     Agribank “mở đường” phát triển nông nghiệp sạch thông qua cung cấp gói tín dụng tối thiểu 50.000 tỷ đồng nhằm đầu tư chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn với quy mô lớn.

     Agribank là một trong 3 ngân hàng có doanh số đấu thầu trái phiếu lớn nhất thị trường, được Bộ Tài chính tặng bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước thông qua phát hành Trái phiếu Chính phủ.

     Agribank ký kết 104 biên bản ghi nhớ, thỏa thuận với đối tác nước ngoài, trong đó có 40 thỏa thuận chung, 13 thỏa thuận TTTM, 36 thỏa thuận cung cấp sản phẩm dịch vụ, 15 thỏa thuận chia sẻ phí.

     Trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh Thương mại và Đầu tư Trung Quốc-ASEAN, Agribank đã ký Biên bản ghi nhớ với ICBC.

    2015

     Tháng 8

     Agribank đã hoàn thành mục tiêu giảm nợ xấu về mức dưới 3% sớm hơn 4 tháng theo phê duyệt của NHNN và tiếp tục nỗ lực giảm nợ xấu về 1,89% tại thời điểm 31/12/2016.

     Tháng 9

     Agribank trở thành thành viên của Eurogiro – Liên minh giữa Ngân hàng và Tổ chức Bưu điện tại các nước.

     Ra mắt hệ thống phát hành và thanh toán thẻ chip theo chuẩn EMV với chủ đề “Công nghệ kết nối tương lai”.

     2014

     Tháng 10

     Agribank phối hợp với Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp Nông thôn Châu Á Thái Bình Dương (APRACA) tổ chức thành công hội thảo “Hệ thống cho vay nông nghiệp” với sự tham gia của các đại biểu từ 12 quốc gia thành viên.

     Trong năm 2014

     Agribank ký kết 36 hiệp định khung và biên bản ghi nhớ, 96 thỏa thuận với các đối tác nước ngoài, đặc biệt ngân hàng đã hoàn thành đàm phán ký kết thỏa thuận khung ISDA với Ngân hàng BNP Paribas.

     Triển khai “Chương trình thi đua ABIC cùng Agribank chung tay xây dựng nông thôn mới”.

  • 2013

     Ban hành Nghị quyết số 450/2013/NQ-HĐTV về việc triển khai Đề án tái cơ cấu Agribank.

  • 2012

     9 tháng 4

     Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản được thành lập theo Quyết định số 635/QĐ-NHNN ngày của NHNN.

     Trong năm 2012

     Đội ngũ cán bộ, viên chức của Agribank lên tới gần 40.000 người, chiếm trên 40% cán bộ, viên chức ngành Ngân hàng cả nước.

     Agribank trở thành ngân hàng lớn nhất Việt Nam về mạng lưới hoạt động với gần 2.400 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc, có chi nhánh tại Campuchia.

     Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chỉ định Agribank là ngân hàng phục vụ Khoản tài trợ bổ sung cho Dự án “Phòng chống dịch cúm gia cầm, cúm ở người và dự phòng đại dịch ở Việt Nam” với tổng giá trị 23 triệu USD.

  • 2011

     31 tháng 1

     Quyết định số 214/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN chuyển đổi mô hình hoạt động của Agribank sang mô hình Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.

     Cuối năm 2011

     Đầu tư cho “tam nông” của Agribank đạt mốc 300.000 tỷ đồng, dẫn đầu các tổ chức tín dụng trong việc cho vay thí điểm xây dựng nông thôn mới.

  • 2010

     28 tháng 6

     Chính thức khai trương chi nhánh tại Campuchia.

     16 tháng 7

     Agribank đã có Quyết định số 881/QĐ-HĐQT-TDHo ngày về việc ban hành quy định thực hiện Nghị định 41 về cho vay hộ gia đình sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tổng dư nợ của khu vực này luôn ở mức 70% tổng dư nợ của toàn hệ thống.

     Tháng 12

     Agribank được Tổ chức thẻ Quốc tế MasterCard vinh danh tại lễ trao giải “MasterCard Hall of  Fame 2010”.

     Agribank phát hành 2,1 triệu thẻ chỉ riêng trong năm 2010, nâng tổng số thẻ lên đến hơn 6,3 thẻ triệu,khẳng định vị trí ngân hàng số 1 Việt Nam trong lĩnh vực phát triển chủ thẻ.

     Hội đồng Quản trị Agribank đã ra quyết định số 1269/QĐ-HĐQT ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, được ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê chuẩn tại Quyết định số 2339/QĐ-NHNN ngày 5/10/2010 thay thế Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam theo Quyết định số 117/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 3/6/2002.

  • 2009

     Chủ tịch HĐQT Agribank đã ký Quyết định phê duyệt Đề án “Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. Theo đó, Agribank đặt mục tiêu giữ vững tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông dân, nông thôn chiếm 70% dư nợ vào năm 2020.

  • 2008

     Agribank hoàn thành xây dựng module phân loại nợ tự động trên hệ thống IPCAR, đáp ứng yêu cầu của Quyết định 493/2005/NHNN và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN.

  • 2007

     Agribank ký kết hợp đồng đào tạo có giá trị 5 triệu Euro với nguồn vốn do Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tài trợ, nhằm tập trung đào tạo kỹ năng quản lý cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt trong toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.

     Agribank mở Văn phòng đại diện tại Campuchia.

  • 2006

     18 tháng 10

     Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp được thành lập.

  • 2005

     Thẻ ghi nợ nội địa Success ra đời như một bước đột phá trong việc cung cấp các dịch vụ tiện ích tới khách hàng.

     Tổ chức thẻ quốc tế VISA đã tiến hành lắp đặt thiết bị hỗ trợ chuẩn chi (VAP) tại Agribank, tạo thuận lợi cho quá trình tham gia thị trường thẻ quốc tế của Agribank.

     Thành lập  thêm Sở Quản lý và Kinh doanh vốn và ngoại tệ.

  • 2004

     29 tháng 1

     Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dịch vụ Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 43/QĐ/GĐQT-TCCB.

     Tháng 7

     Agribank là ngân hàng thương mại đầu tiên ban hành cuốn sổ tay tín dụng, quy định những hệ thống chính sách trình tự cho vay chặt chẽ theo thông lệ quốc tế.

     Trong năm 2004

     Agribank đã thành lập Ủy ban Quản lý tài sản nợ và tài sản có trực thuộc Hội đồng Quản trị.

  • 2003

     24 tháng 3

     Tổng Công ty Vàng Agribank Việt Nam – CTCP (VIET NAM AGRIBANK GOLD CORPORATION JSC. – AJC) được thành lập theo Quyết định số 44/QĐ/HĐQT-TCCB.

     16 tháng 6

     Quyết định số 596/NHNN-TCCB ngày của Tổng Giám đốc Agribank “Quy định về công tác đào tạo trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”

     18 tháng 7

     Trung tâm thẻ của Agribank được thành lập.

     Trong năm 2003 

     Agribank xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thông tin khách hàng trên cơ sở dữ liệu Oracle.

     Agribank đã ký hợp đồng đại lý trực tiếp với Công ty chuyển tiền nhanh Western Union.

     Agribank ủng hộ Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” tổng số tiền 1.468 triệu đồng và sử dụng vào việc xây dựng 35 căn nhà  tình nghĩa  tại 9  tỉnh  tặng các đối  tượng chính sách.

  • 2002

     Agribank thực hiện đầy đủ hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế.

  • 2001

     19 tháng 4

     Hội đồng Quản trị Agribank đã có quyết sách quan trọng thể hiện tại Quyết định số 80/QĐ-HĐQT-02, ban hành mô hình cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành của Ngân hàng.

  • 2000

     Tháng 9

     Hệ thống chuyển tiền điện tử áp dụng công nghệ tiên tiến đã được vận hành tại 9 chi nhánh gồm: Sở giao dịch, NHNo Hà Nội, Sở giao dịch I, NHNo Hà Tây, NHNo Láng Hạ, Sở giao dịch III (NHTP Đà Nẵng), Sở giao dịch II (NHNo Sài Gòn), NHNo Cần Thơ, NH 50 Bến Chương Dương.

     20 tháng 12

     Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp (Agriseco), một trong những công ty chứng khoán đầu tiên hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 269/QĐ/HĐQT của Agribank.

     Trong năm 2000

     Ban Lãnh đạo Agribank đã xây dựng tầm nhìn và chiến lược phát triển cho đến năm 2010 với phương châm và triết lý kinh doanh: “Mang phồn thịnh đến với khách hàng”.

     Cuối năm 2000

     Agribank đã phát triển được hơn 2.300 chi nhánh trên mọi miền đất nước.

  • 1999

     Tháng 4

     Triển khai thực hiện Quyết định 67/1999/ QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn.

     Tháng 10

     Hệ thống máy ATM của Agribank được đưa vào hoạt động.

     23 tháng 10

     Agribank có Nghị quyết liên tịch số 2308 với Hội nông dân Việt Nam

  • 1998

     14 tháng 7

     Công ty Cho thuê tài chính I là đơn vị hoạch toán độc lập trực thuộc Agribank được thành lập theo Quyết định thành lập số 238/QD-NHNN5 của Thống đốc NHNN.

     Tháng 7

     Công ty cho thuê Tài chính 2 (ALC2) là doanh nghiệp nhà nước, đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Agribank được thành lập theo Quyết định số 239/1998/QĐ-NHNN5 của Thống đốc NHNN.

  • 1997

     27 tháng 8

     Tổng Giám đốc Agribank ban hành văn bản số 1667/NHNo-06 quy định hộ sản xuất vay tối đa 5 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, chỉ cần kê danh mục tài sản làm đảm bảo trong đơn xin vay.

     Tháng 11

     Tổng Giám đốc Agribank ban hành văn bản 1022/NHNo-06 bổ sung đối tượng vay vốn đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản gồm trồng cây dài ngày, chè, cà phê, cao su, điều, cây ăn quả có giá trị cao, kinh tế trang trại.

  • 1996

     1 tháng 1

     Ngân hàng Phục vụ người nghèo chính thức đi vào hoạt động.

     23 tháng 1

     Lễ trao tặng Huân chương Lao động cho NHNo tại Hà Nội.

     19 tháng 5

     NHNo ra Quyết định 210/NHNo-QĐ cho triển khai toàn hệ thống hình thức Chi nhánh loại IV thay cho tên gọi Ngân hàng liên xã.

     Tháng 6

     NHNo đăng cai tổ chức Hội nghị lần thứ 34 Ban điều hành APRACA tại Hà Nội. Đây là dấu mốc quan trọng trong quan hệ đối ngoại nhằm đẩy mạnh sự hợp tác có hiệu quả của của NHNo với APRACA.

     15 tháng 11

     Quyết định số 280/QĐ-NHNN của NHNN đổi tên NHNo Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), hoạt động theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước theo quy định tại Quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ.

     20 tháng 12

     Agribank thực hiện thí điểm thanh toán xuất nhập khẩu, mậu dịch biên giới giữa hai ngân hàng – Ngân hàng Nông nghiệp Hải Ninh (Quảng Ninh) và Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hưng (Quảng Tây, Trung Quốc) tại cửa khẩu quốc tế Móng Cái.

     26 tháng 12

     Công đoàn Agribank được thành lập theo Quyết định số 312/ToC-CĐNH của Chủ tịch Công đoàn Ngân hàng Việt Nam.

  • 1995

     Tháng 2

     NHNo tham gia hệ thống thanh toán ngân hàng quốc tế (SWIFT), đây là điều kiện thuận lợi cho NHNo Việt Nam mở rộng và nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế.

     Tháng 3

     Quỹ Cho vay ưu đãi hộ nghèo được thành lập theo quyết định của Thống đốc NHNN.

     24 tháng 3

     Công bố Quyết định của Thống đốc NHNN về việc thiết lập Quỹ Cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất của NHNo.

     15 tháng 8

     Khai trương Ngân hàng Liên doanh VINASIAM – liên doanh giữa NHNo với Ngân hàng thương mại Siam và Tập đoàn CP (Thái Lan) với số vốn điều lệ ban đầu của ngân hàng  này là 15.000.000 USD.

     31 tháng 8

     Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 525/QĐ-TTg cho phép thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo.

     1 tháng 9

     Thống đốc NHNN Cao Sỹ Kiêm ký Quyết định số 230/QĐ-NH5 về việc thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo.

  • 1994

     1 tháng 1

     Văn bản 946A đã được ban hành thay thế văn bản 946 trước đây, và được gọi là Khoán 946A. Khoán 946A thực chất là khoán tiền lương trên kết quả thu chi của từng đơn vị, có chênh lệch thu chi càng cao thì quỹ tiền lương càng cao và ngược lại.

     30 tháng 7

     Thống đốc NHNN ra Quyết định số 160/QĐ-NHN9 chấp thuận đổi mới mô hình tổ chức quản lý của NHNo Việt Nam.

     Từ tháng 8

     Hình thành Khối kinh tế đối ngoại và Quản lý hối đoái (do ông Đỗ Tất Ngọc làm Giám đốc) có chức năng tham mưu và chỉ đạo các hoạt động quan hệ quốc tế, dự án nước ngoài và kinh doanh đối ngoại. Sở Kinh doanh hối đoái (do ông Nguyễn Gia Huân làm giám đốc) là đơn vị trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh đối ngoại tại Trung tâm điều hành.

     20 tháng 9

     NHNo ban hành văn bản số 1082/NHNo-Việt Nam quy định tổ chức mạng lưới và nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ.

     4 tháng 10

     NHNo ra văn bản số 1164/NHNO-TT hướng dẫn các đơn vị chuẩn bị các điều kiện, mở rộng triển khai mở tài khoản cá nhân, khuyến khích thanh toán séc cá nhân.

  • 1993

     12 tháng 2

     NHNo đã ban hành văn bản số 152/NHNo-TT hướng dẫn thực hiện thanh toán qua mạng trong hệ thống.

     20 tháng 9

     NHNo ban hành văn bản số 1234/NHNo-TT hướng dẫn thanh toán tay ba giữa người đi vay, ngân hàng, và người cung ứng dịch vụ (khi cho hộ sản xuất vay vốn qua cửa hàng bán vật tư nông nghiệp).

     27 tháng 8

     Tổng Giám đốc NHNo ban hành văn bản 495D/NHNo-KH quy định về xây dựng, tổ chức thực hiện KHKD trong toàn hệ thống NHNNVN. Văn bản này thay thế cho văn bản văn bản số 495/NHNo-KH.

     2 tháng 9

     Tổng Giám đốc NHNo ban hành văn bản số 499A/NHNo-TDNT về biện pháp nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất.

     Từ năm 1993

     NHNo đã nhận làm dịch vụ ủy thác đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thông qua các dự án phát triển có vốn nước ngoài.

  • 1992

     24 tháng 6

     NHNo Việt Nam ban hành Văn bản số 495/NHNo-KH về Quy chế xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch tín dụng tổng hợp trong hệ thống NHNN Việt Nam.

     Tháng 10

     Thành lập Sở Giao dịch đối ngoại (tức Sở Kinh doanh hối đoái sau này).

     10 tháng 12

     NHNo Việt Nam thí điểm thực hiện chuyển tiền qua mạng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với 5 đơn vị tham gia, tiến đến triển khai mở rộng.

     22 tháng 12

     Thống đốc NHNN ra Quyết định số 603/NH-QĐ về việc thành lập các chi nhánh của NHNo ở các tỉnh, thành phố gồm 3 Sở Giao dịch (Sở Giao dịch I tại Hà Nội, Sở Giao dịch II tại thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch  III tại Đà Nẵng), 43 chi nhánh tại tỉnh, thành phố, và 475 chi nhánh quận, huyện, thị xã.

     Cuối năm 1992

     NHNo Việt Nam thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo Điều lệ NHNo Việt Nam ban hành theo Quyết định số 250/QĐ-NH5 ngày 11/11/1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

  • 1991

     Đầu năm 1991

     Hội nghị Ban điều hành Hiệp hội tín dụng Nông nghiệp Nông thôn  khu vực châu Á-Thái Bình Dương (APRACA) tại Bắc Kinh đã công nhận NHNo Việt Nam là hội viên.

     18 tháng 1

     Tổng Giám đốc NHNo Việt Nam đã ban hành văn bản số 45/KH-NHNo về Hướng dẫn lập và quản lý kế hoạch kinh doanh trong hệ thống NHNNVN; Văn bản số 53/NHNg về “Biện pháp cho vay ngắn hạn, trung hạn đối với hộ nông dân”.

     1 tháng 3

     Văn phòng Đại diện NHNo Việt Nam ở miền Nam được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định số 18/NH-QĐ của Thống đốc NHNN, và Văn phòng Đại diện NHNo Việt Nam ở miền Trung  được thành lập tại thành phố Quy Nhơn (thuộc tỉnh Bình Định) theo văn bản số 439/CV-TCCB của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

     23 tháng 7

     Tổng Giám đốc NHNo Việt Nam đã ban hành văn bản 499/NHNo về việc cho vay hộ nông dân.

     1 tháng 9

     NHNo Việt Nam ban hành Văn bản số 946/NHNo về chế độ khoán tài chính.

     Tháng 10

     NHNo Việt Nam chính thức gia nhập APRACA

  • 1990

     24 tháng 5 

     Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công bố Sắc lệnh số 37-NTC/HĐNN ban hành Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Sắc lệnh số 38-NCT/HĐNN ban hành Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, nhằm tổ chức lại và đưa hệ thống Ngân hàng vào hoạt động phù hợp với yêu cầu của sản xuất hàng hóa, bảo đảm phát triển nền tiền tệ một cách an toàn, điều hòa việc sử dụng tiền tệ có hiệu quả, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển năng động, trật tự.

     14 tháng 11

     Quyết định số 400/CTcủa  Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc Thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã đổi tên Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.

     Tháng 12

     Chính phủ Việt Nam và Cộng đồng châu Âu (EC) đã ký Hiệp định về dự án Tài trợ của EC “Chương trình hồi hương và tái hòa nhập” bao gồm 6 Chương trình: Y tế, Đào tạo (nghề nghiệp), Doanh nghiệp nhỏ, Dự án, Thông tin tuyên truyền, Tín dụng, trong đó Tín dụng là chương trình quan trọng với số vốn nhiều nhất. Sau khi khảo sát nhiều ngân hàng thương mại, EC quyết định chọn NHNNVN là ngân hàng đầu tiên thực hiện dự án

  • 1989

     1 tháng 5

     NHNN đã ra quyết định thành lập Chi nhánh Ngân hàng phục vụ lương thực tại thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Thanh Châu làm Giám đốc chi nhánh.

     Từ giữa năm 1989

     NHPTNo Việt Nam thực hiện thí điểm cho vay tới hộ nông dân tại một số chi nhánh của ở các tỉnh như Hà Bắc, An Giang, Cửu Long, Long An và huyện Bình Chánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Việc thí điểm đạt kết quả tốt, ngân hàng thu được cả gốc lẫn lãi đúng kỳ hạn, nông dân rất phấn khởi.

  • 1988

     26 tháng 3

     Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo Nghị định số 53/NĐ-HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/07/1988 trên phạm vi cả nước.

     6 tháng 10

     Tổng Giám đốc (nay là Thống đốc) NHNN đã ra Quyết định số 104/NH-QĐ cho phép Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam (NHPTNo) thành lập chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long. Giám đốc chi nhánh là ông Lê Chí Thành (Phó Tổng Giám đốc thứ nhất NHPTNo) kiêm nhiệm. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động theo nguyên tắc hạch toán độc lập, tự huy động, tự cho vay để phát triển sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long.

     

 tag: tiếng anh tuyển nẵng thoại đài hiểm gửi mã hôm ptnt agriseco logo tiết kiệm bắt đường dây nóng kiểm tra tphcm tuyến tĩnh tien gui vietcombank giang dong ebanking gian web sạn lạt nha giờ phú quảng giấy hoàng triểnnông online huế viết & rủi ro khánh cứu vn thường kiệt gì va phat trien nong thon hàn vũng tàu