Nghiệp chướng và nhân quả

 Nghiệp chướng là gì

 Nghiệp chướng là từ xuất hiện trong đạo phật được xuất hiện trong bài giảng kinh của Phật giáo. Trong đó Nghiệp chướng là từ được ghép từ nghiệp và từ chướng. Ở đây nghiệp có nghĩa là khởi đầu, sự tạo nghiệp cũng có thể là  kết quả của sự tạo nghiệp, còn tùy vào hành động và từng trường hợp để phân định. Tâm niệm chúng ta khởi tạo ra những tư tưởng, suy nghĩ gọi là ý nghiệp, miệng chúng ta phát ra âm thanh ngôn từ gọi là khẩu nghiệp, thân thể chúng ta hành động tạo ra các sự việc, hành động gọi là thân nghiệp. Vì thế nhìn chung, nghiệp được tạo ra từ chính suy nghĩ, tư tưởng, lời nói, hành động của chính chúng ta. Đó là tạo nghiệp. Sau khi tạo nghiệp gây ra kết quả, hậu quả đó cũng được gọi là nghiệp. Nghiệp đã phát sinh có kết quả sẽ sinh ra chướng ngại về sau.

 Chướng là từ chướng trong chướng ngại. Chướng ngại ở đây là những vật cản, ngoại cảnh tác động khiến chúng ta tạo tác tạo nghiệp. Từ chướng đứng sau nhưng theo nghĩa thì chướng phải có trước, có chướng tứ có sự tác động từ bên ngoài thì con người ta mới tạo nghiệp.

 Nghiệp chướng ở đây không phải là nói về sự thất bại hay việc xấu mà là sự tác động từ bên ngoài tạo ra sự xuất hiện và hình thành của hành động sẽ có kết quả ảnh hưởng về sau.  Vì thế nghiệp chướng cũng có thể là điều thiện cũng có thể là điều xấu. Điều thiện được gọi là Thiện nghiệp. Thiện nghiệp có 3 đường là Trời, Người và Atula và Điều xấu có 3 đường là Địa ngục, Ác quỷ và Súc sinh. Vì thế có thể nói rằng, dù là điều thiện hay điều ác đều tạo ra nghiệp.

 Nghiệp chướng và nhân quả

 Nếu là nghiệp thiện thì đó là điều tốt sẽ sinh ra sự tốt lành sau này, nhưng nếu là ác nghiệp thì phải thực hiện các cách hóa giải nghiệp chướng để không hệ lụy sau này.

 Cách hóa giải nghiệp chướng tốt nhất là phải luôn có tuệ và định. Tuệ là trí tuệ, phải có trí tuệ sáng suốt, nghĩ trước nghĩ sau trước khi làm một việc, nói một câu. Định là kiên định, không để ngoại vật, ngoại cảnh tác động làm ảnh hưởng tới suy nghĩ và hành động của mình. Chỉ có người có đủ định và tuệ mới có thể vượt khỏi luân hồi lục đạo, giải quyết vấn đề một cách quyết đoán và chính xác. Vì thế, trong phật giáo thường dạy chúng ta nhất nhất phải làm việc tốt không làm việc xấu để tránh tạo ác nghiệp sau này. Và hơn hết, chúng ta làm điều thiện nghiệp nhưng không chấp nhặt chuyện mình đã làm để so đo thì sẽ không tạo ra nghiệp chướng.

 Vì thế trong đời sống hàng ngày, hành động, lời nói hay ý nghĩ đều phải giới, định, tuệ. Đối với ác nghiệp từ người khác không chấp nhặt so đo, phải phân tích suy nghĩ tìm hiểu kỹ lưỡng từ đó có cách phân giải rõ ràng. Như thế mới là sự thành công, mĩ mãn không tạo ác nghiệp, giải trừ nghiệp chướng tận gốc.

 Kinh sám hối nghiệp chướng

 Sám Hối Sáu Căn
( thắp hương xong, quỳ xuống chắp tay đọc lớn)
Hương trầm thơm ngát cả rừng thiền,
Vườn tuệ chiên đàn nguyện kết nên.
Đao Giới vót thành hình núi thẳm,
Lư lòng thắp sáng nguyện dâng lên.
Chúng con cung kính quỳ trước Phật đài, tán
dương công đức bậc thầy ba cõi, đảnh lễ
hồng danh chư Phật ba đời, chí thành cầu xin
sám hối tất cả tội lỗi, cố ý hay vô ý, đã tạo ra
trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
Chúng con nguyện: chánh pháp được lan
truyền khắp chốn; lời Phật được phổ biến
muôn nơi; người người từ bỏ tham giận, si
mê; tưới tNm từ bi, hạnh phúc; làm lành lánh
dữ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau; thế giới
dứt nghiệp binh đao; muôn loài an vui giải
thoát.
Lại nguyện: đời đời kiếp kiếp thường làm bà
con Phật pháp, quyến thuộc từ bi, hộ trì Tam
Bảo ở mãi thế gian, sống trọn đời trong an
vui tự tại. Từ nay, sạch hết não phiền, thoát
vòng mê muội. Nguyện cùng pháp giới chúng
sanh đều chứng thành quả Phật.
(đứng lên chắp tay xướng lễ)
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y

 – Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không,
biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương
chư Phật, tôn Pháp, hiền thánh Tăng, thường
trụ Tam Bảo. (1 lạy)
– Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ
Ðiều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Ðương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền
Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn
Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
– Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực
Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật,
Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí
Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ
Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ-tát.(1 lạy)
(ngồi xuống khai chuông mõ trì tụng)
TÁN LƯ HƯƠNG
Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương,
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền,
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Ngưỡng mong chư Phật phước liền ban cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao siêu mầu nhiệm
Cơ duyên may được thọ trì
Xin nguyện đi vào biển tuệ
Tinh thông giáo nghĩa huyền vi
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
(đứng lên chắp tay xướng)
ĐẢNH LỄ SÁM HỐI
Ðại từ đại bi thương xót chúng sanh
Ðại hỷ đại xả cứu vớt muôn loài
Hào quang diệu tướng dùng tự trang nghiêm
Ðệ tử hết lòng quy y đảnh lễ
Nhất tâm đảnh lễ: (mỗi câu 1 lạy)
Nam mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật
Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật
Nam mô Ðông Phương Giáo Chủ Dược Sư
Lưu Ly Quang Vương Phật
Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn
Ðạo Sư A Di Ðà Phật
Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Ðương Lai Hạ
Sanh Di Lặc Tôn Phật
Nam mô Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam mô Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Ðại Lực Ðại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát
Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp
Tôn Giả Ðại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất
Tôn Giả Ðại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên
Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly
Tôn Giả Khải Giáo A Nan Ðà
Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma
Tổ Sư Khương Tăng Hội
Tổ Sư Trúc Lâm Ðại Ðầu Ðà
Tổ Sư Pháp Loa
Tổ Sư Huyền Quang
Liệt Vị Tổ Sư Qua Các Thời Ðại Từ Tây
Trúc Ðến Việt Nam
Tam Châu Cảm Ứng Hộ Pháp Di Ðà Tôn
Thiên Bồ Tát, Hộ Giáo Hộ Giới Già Lam
Thánh Chúng Liệt Vị Thiện Thần.
(ngồi xuống tụng tiếp)
Chí Tâm Sám Hối:
Từ vô thỉ đến nay muôn kiếp,
Quên bản tâm, bỏ mất đạo mầu.
Ba đường khổ ải sa vào,
Sáu căn lầm lạc nhân sâu bao đời.
Nay con nguyện làm vơi tội lỗi
Để tránh điều thống hối về sau,
Xét soi nhân quả đuôi đầu,
Chúng con xin nguyện trồng sâu căn lành.
SÁM HỐI NGHIỆP CỦA MẮT
Lầm hoa giả mà quên trăng thật,
Yêu ghét rồi xấu đẹp cạnh tranh,
Xa đường chánh kiến lầm mình,
Phân chia vàng đỏ, trắng xanh mê mờ.
Mắt nhìn lệch khác gì như quáng,
Gặp vẻ xinh duyên dáng trộm nhìn,
Chưa mù mà mắt không tinh,
Chẳng hay ‘mặt thật’ của mình ra sao.
Gặp kẻ giàu, tranh nhau nhướng mắt,
Thấy người nghèo muốn khuất cho xong,
Người dưng chết chóc ngoài lòng,
Bà con tạ thế, lệ dòng khóc than.
Đến Tam Bảo, Già-lam, chùa tháp,
Thấy tượng, kinh chẳng chút đoái hoài,
Tại Chùa lại đoái gái trai,
Mãi mê liếc mắt đưa mày sắc dâm.
Chẳng nể sợ Long Thần, Hộ Pháp,
Làm ố hoen cửa Phật trang nghiêm,
Tội này vô lượng vô biên,
Phát sinh từ cửa mắt nhìn mà ra.
Nghiệp ác này phải sa địa ngục,
Bao kiếp dài mới được làm người,
Làm người lại bị mắt đui,
Nếu không sám hối hẳn thời khó xong.
Nay con nguyện một lòng sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay,
Thành tâm quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA TAI
Thích lời tà, ghét nghe chánh pháp,
Gốc ‘thật’ quên, mải miết theo ngoài,
Sáo đàn inh ỏi khoái tai,
Mõ chuông tu niệm tưởng loài ếch kêu.
Câu vè ví ham vui để dạ,
Lời kinh cùng tiếng kệ ngoài tai,
Lời dua nịnh lại vui vầy,
Những lời ‘ngọt mật’ khen hay mong cầu.
Nghe lời phải đã nào tin nhận,
Ba chén vào đôi bạn gái trai,
Châu đầu áp má kề tai,
Ba điều bốn chuyện dông dài tai quen.
Lời thầy dạy chẳng thèm nghe tới,
Lời bạn hiền khuyên chói cả tai,
Hiếu trung lễ nghĩa gác ngoài,
Chạy theo tiếng ái, vui vầy giai nhân.
Lời kinh kệ chẳng màng, chẳng thích,
Tội như vầy chứa chất vô biên,
Dẫy đầy một khối trần duyên,
Hết đời, đường ác phải liền đọa sa.
Trả hết nghiệp rồi đi sinh tiếp,
Sinh làm người bị điếc hai tai,
Dốc lòng sám hối từ nay
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA MŨI
Về mùi lạ, mũi tham trăm thứ,
Chẳng kể gì hương tuệ sạch trong,
Thích tìm sạ ướp, lan xông,
Mùi hương giới định, mũi không biết gì.
Trước bàn Phật mỗi khi nhang đốt,
Khói quyện quanh phảng phất hương trầm;
Trộm hương phNy khói hít thầm
Long Thần há nể, quỷ thần xem khinh.
Mùi son phấn hồng nhan luyến chặt,
Chẳng đoái hoài cây giác hoa tâm,
Chợ xa rồi lại bếp gần,
Của ngon vật lạ chẳng cần sạch dơ.
Chẳng kể chi mùi như thịt cá,
Tanh hôi dùng ráo trọi chẳng tha,
Đàm vàng nước mũi chảy ra,
Dơ thềm bNn đất lê la say nằm.
Chốn cửa Phật phòng tăng chẳng kể,
Mùi nặc nồng hơi thở mà kinh,
Ngửi sen ý trộm khởi sinh,
Nghe mùi má phấn tư tình phát ra.
Nào hay đó đều là nghiệp mũi,
Những thứ này tội lỗi vô biên,
Dẫy đầy một khối trần duyên,
Chết rồi đường ác phải liền đọa sa.
Trả hết nghiệp rồi đi sanh tiếp,
Làm thân người bệnh nghiệp khổ thay,
Dốc lòng sám hối tiêu tai,
Nay con quỳ trước Phật đài ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA LƯỠI
Tham mọi vị mà mình ưa thích,
Chẳng kể gì xấu tốt, dở ngon,
Nếm vào thứ béo, thứ còm,
Sát sinh hại vật chỉ dồn nuôi thân.
Gà, vịt, cá, chim … hầm cho kỹ,
Lại thêm vô ngũ vị tỏi hành
Kể gì mùi vị hôi tanh,
Miễn sao khoái khNu là sinh lưỡi thèm.
Nay chưa đũ mai tìm ăn nữa,
Gặp phải kỳ đến bữa đàn chay,
Cầu thần lễ Phật lời hay,
Cố để bụng đói qua ngày cho xong.
Thức ăn chay lỏng lòng lạt miệng,
Khi phải ăn, chẳng luyến, chẳng màng,
Như người bệnh phải vương mang
Ăn không ngon miệng, cốt dùng qua loa.
Thấy thịt cá lòng đà hoan hỷ,
Cơm rượu nồng bí tỉ, vui vầy,
Gặp khi cưới gả đêm ngày,
Cùng là rượu thịt ma chay tiệc tùng.
Rồi sát sinh mà dùng lấy thịt,
Khiến trùng trùng tội nghiệp manh nha,
Lại ba tấc lưỡi như là:
Dệt thêu, đâm thọc, ác tà, dối gian.
Vô lễ với họ hàng, Tam Bảo,
Mắng chửi người, ráo nạo mẹ cha,
Chê bai dè bỉu người ta,
Luận bàn kim cổ nào là khen chê.
Lỗi bản thân dấu che đây đó,
Khoe giàu sang; nghèo khó miệt khinh,
Tăng ni xua đuổi, chẳng gần,
Kẻ ăn người ở, chưởi inh cả ngày.
Lời dèm xỉa như bày thuốc độc,
Nịnh hót như cung bậc phím đàn,
Lấy điều sai quấy điểm trang,
Nói không thành có, oán than lạnh nồng.
Việc như vậy trùng trùng vô kể,
Như hà sa chẳng thể đếm cùng,
Chết sa địa ngục nấu nung,
Lưỡi môi cày xéo, nước đồng rót vô,
Quả báo ấy bao giờ mới hết,
Sanh làm người câm điếc suốt đời
Nay con quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
SÁM HỐI TỘI CỦA THÂN
Xét thân xác tinh cha, huyết mẹ,
Phối hợp nên nhờ thế mà thành,
Trăm hài năm tạng kết sinh,
Chấp cho là thật thân hình của ta.
Tự quên mất bỏ qua thân-pháp,
Rồi dâm tà, trộm cướp, sát sinh,
Khiến cho ba nghiệp hoành hành,
Để rồi quả báo quNn quanh luân hồi.
Nghiệp sát sinh nơi người tàn ác,
Chẳng lòng từ, hạ sát sinh linh,
Đâu hay sinh vật với mình,
Vốn cùng một thể vốn sinh một nguồn.
Khi sát hại chẳng buồn thương tiếc,
Chỉ lợi mình mà giết chúng sinh,
Nào làm thuốc độc cho tinh,
Ngải bùa trù yểm gian manh rợn người.
Người còn hại, dễ thời thương vật,
Nào đốt rừng, săn thú, lấp khe,
Bẫy chim, lưới cá hội hè,
Niệm vừa dấy nghĩ thấy nghe vui làm.
Mỗi hành động đều mang tội lỗi,
Phải siêng năn sám hối, lìa xa,
Cho hay trộm cắp nghiệp tà,
Của người nhìn thấy đã là nổi tham.
Vướng lòng tham, việc làm chẳng ngại:
Móc túi người, cạy cửa cạy rương,
Đến nơi chùa tháp, thiền đường,
Lòng tham thấy của dễ thường bỏ qua.
Không chỉ cắp ngọc ngà châu báu,
Mới tạo thành tội báo nghiệp sinh.
Cho dù cọng cỏ cây kim,
Không cho mà lấy đều sinh nghiệp này.
Mê nhan sắc, tơ lòng bủa khắp,
Thích phấn son mắt đắm ái tình.
Quên đi hai chữ liêm trinh,
Chỉ vì tham dục, ngục hình khổ đau.
Lòng chung thủy bắt đầu vơi cạn,
Lén tư tình, đụng chạm gái trai.
Nắm tay âu yếm kề vai,
Chèo tường khoét ngạch chỉ vì nghiệp dâm.
Tội lỗi ấy vô phương kể xiết,
Địa ngục sa, muôn kiếp chẳng xong,
Bao đời tội báo không cùng,
Gái nằm giường sắt, cột đồng trai ôm.
SÁM HỐI TỘI CỦA Ý
Dòng suy nghĩ quNn quanh không dứt,
Chấp tướng nên dính mắc tình trần,
Như tầm nhả kết tơ giăng,
Kết thành cái kén giam thân của mình.
Như ‘thiêu thân’ tự tìm vào lửa,
Khiến lửa hồng thiêu hủy xác thân,
U mê chưa tỉnh tâm thần,
Đảo điên vọng tưởng mê lầm mà ra.
Các nghiệp ấy chẳng qua ba độc,
Đó chính là tham dục, sân si,
Mưu thần chước quỷ chi chi,
Tham bòn vơ vét từng ly từng đồng.
Một lời mười vẫn còn tham lấy,
Lòng như thùng không đáy đâu hay,
Bao giờ rót được cho đầy,
Rừng vàng biển bạc keo thì vẫn keo.
Dù có thấy kẻ nghèo đói khát,
Cũng không cho một cắc một đồng,
Gạo hư tiền mục mặc lòng,
Vốn người bủn xỉn chẳng dùng cho ai.
Đói khổ mặc, chẳng hoài giúp đỡ,
Mất một đồng một chữ đã to,
Tiền trăm vào túi mặc dù,
Vẫn cho là ít bo bo chẳng dùng.
Chẳng cho ai một đồng một chữ,
Dẫu của tiền tích trữ đầy kho,
Ngày thì tính toán, đêm lo,
Lao tâm khổ trí vốn do nghiệp này.
Do nền tảng tham sân làm gốc,
Lửa giận hờn cao ngất tự thiêu,
Trợn tròng quắc mắt to điều,
Làm cho hòa khí tan theo lửa này.
Không riêng chỉ người đời kẻ tục,
Cả tăng ni lắm lúc vẫn còn,
Biện tranh kinh luận thua hơn,
Giận chê sư trưởng, trách hờn mẹ cha.
Như cành úa cỏ khô vẫn thấy,
Hẳn có hồi lửa cháy tan thôi,
Nói ra chết vật hại người,
Từ bi không nghĩ, xa rời giới răn.
Mở miệng thì nói thần nói thánh,
Gặp chuyện thì khó tránh ngu si.
Cửa ‘không’ dù ở bao thì,
Vẫn còn chấp mắt, chỉ vì ‘cái ta’.
Như cây vốn sinh ra gốc lửa,
Lửa lại làm thiêu hủy cả cây.
Những điều tội nghiệp trên đây,
Đều do nóng giận nghiệp nầy mà ra.
Bởi căn tánh đoạ sa mê muội,
Ý thức thành tăm tối, chẳng ngay,
Dữ lành trên dưới nào hay,
Giết người hại vật, chặt cây tan tành.
Mắng hiền thánh, rẻ khinh đức Phật,
Ngược nghĩa tình quên đức, quên ân,
Đã không suy xét xa gần,
Ngu si mê muội làm nhân đoạ đầy.
Nghiệp báo ác đã gây rất nặng,
Đến cuối đời, dứt mạng ra đi,
Rơi vào địa ngục A-tỳ,
Trải muôn ngàn kiếp dễ gì đầu thai.
Khi tái sanh ngu si mê muội,
Nếu không lo sám hối tiêu trừ,
Khó mà dứt nghiệp si ngu,
Trăm ngàn vạn kiếp như mù, khó thông.
Nay con nguyện một lòng sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay,
Thành tâm quỳ trước Phật đài,
Lạy ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
Con đã gây ra bao lầm lỡ,
Khi nói, khi làm, khi tư duy,
Đam mê, hờn giận và ngu si,
Nay con cúi đầu xin sám hối.
Một lòng con cầu Phật chứng tri.
Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới,
Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm,
Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm,
Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm.
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm,
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát (3 lần)
KINH TINH YẾU
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Bồ-tát Quán-Tự-Tại,
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát-nhã-ba-la-mật,
Tức diệu pháp trí độ
Bỗng soi thấy năm uNn,
Ðều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong,
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
“Nghe đây Xá-Lợi-Tử:
Sắc chẳng khác gì không,
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không,
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uNn kia,
Cũng đều như vậy cả.
Xá-Lợi-Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt,
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt,
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng,
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý (sáu căn)
Không có sắc, thanh, hương.
Vị, xúc, pháp ( sáu trần)
Không có mười tám giới,
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh,
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử,
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc.
Khi một vị Bồ-tát
Nương diệu pháp Trí Ðộ,
Bát nhã ba la mật
Thì tâm không chướng ngại,
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi,
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo,
Ðạt niết bàn tuyệt đối.
Chư Phật trong ba đời,
Y diệu pháp trí độ
Bát nhã ba la mật,
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng,
Bát-nhã-ba-la-mật
Là linh chú đại thần,
Là linh chú đại minh
La linh chú vô thượng.
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng,
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn,
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Ðộ,
Bát-nhã-ba-la-mật”
Nói xong Ðức Bồ Tát,
Liền đọc thần chú rằng:
Gate, Gate, Paragate,
Parasamgate Bodhi Svaha (3 lần)
THẤT PHẬT DIỆT TỘI
CHƠN NGÔN
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế,
ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn
lăng càn đế ta bà ha. (3 lần)
KỆ HỘ PHÁP
Trời, A-tu-la và Dược-xoa
Ðến đây nghe Pháp hãy hết lòng
Ủng hộ đạo Phật cho bền lâu
Tất cả làm theo lời Phật dạy
Những ai đã đến đây nghe Pháp
Hoặc ở dưới đất hoặc trên không
Hãy nhìn mọi loài bằng mắt thương
Ngày đêm an trú trong chánh pháp.
Nguyện cho thế giới thường an ổn
Thấm nhuần phước trí và từ bi
Tất cả tội chướng đều tiêu trừ
Lìa xa khổ não thường an lạc
Ðại chúng nhất tâm trì giới luật
Công phu thiền định phải tinh chuyên
Ðóa hoa tuệ giác nở trang nghiêm
Khắp nơi mọi miền đều hạnh phúc.
Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha
Tát (3 lần)
HỒI HƯỚNG
Sám hối công đức khó nghĩ lường
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Ðều được vãng sanh về Cực lạc
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não
Nguyện chơn trí tuệ thường sáng tỏ
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ
Kiếp kiếp thường tu Bồ Tát đạo
Nguyện sanh Cực Lạc cảnh phương Tây
Chín phNm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh
Bất thoại Bồ Tát là bạn lành
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Ðệ tử và chúng sanh
Ðều trọn thành Phật đạo.
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
tác đại chứng minh
Ðệ tử chúng con một dạ chí thành đảnh lễ
hồng danh chư Phật, sám hối công đức
chuyên vì kỳ nguyện Tam Bảo gia hộ đệ tử
chúng con đương đời phiền não dứt sạch,
nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân
tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt, hưởng
cảnh an nhàn. Cửu huyền thất tổ, nội ngoại
tiên linh, đều được nghe kinh, vãng sinh Tịnh
Ðộ. Khắp nguyện: Thuyền Từ phổ độ, cảm
ứng vô biên,
đồng hóa hữu duyên, đồng thành Phật đạo.
Ðồng niệm: Nam Mô A Di Ðà Phật.
TỰ QUY Y
– Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể
theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
-Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu
rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.
-Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh,
quản lý đại chúng, hết thảy không ngại.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
(đứng lên lạy 3 lạy, xá rồi lui ra)

  

  

  

 tag: lồng phim tung phụ nữ phá truyện mp3 8 5 19 quốc cúng loồng bạt thiết vay lãi chướng- thái