Phân chia tài sản sau ly hôn

 Yêu cầu chia tài sản chung sau khi ly hôn

 Sau khi ly hôn trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận được về việc chia tài sản sau ly  hôn thì vợ, chồng có thể yêu cầu Tòa án chia tài sản chung sau khi ly hôn.

 Cách chia tài sản khi ly hôn

 Theo đó, về vấn đề chia tài sản sẽ được phân chia theo quy định tại điều 59 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:

 2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

 a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Điều 33,43 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về việc xác định tài sản chung và tài sản riêng như sau:
Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luậtnày; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Bố mẹ ly hôn con có được chia tài sản
Pháp Luật Hôn nhân và gia đình không quy định cha mẹ khi ly hôn phải chia tài sản cho con cái. Việc chia tài sản hay không chia tài sản cho con hoàn toàn thuộc quyền quyết định của cha, mẹ. Vì vậy, để chia tài sản cho con thì cha, mẹ có thể thỏa thuận về việc chia tài sản cho con.
Khi ly hôn có được chia tài sản bố mẹ chồng tặng không ? Tài sản thừa kế có phải chia khi ly hôn

 Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tài sản chung của vợ chồng được giải thích như sau:

 1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

 Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

  Như vậy, nếu tài sản mà được bố mẹ chồng tặng cho riêng, tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng thì sẽ không phải chia khi ly hôn.

 Những vụ tranh chấp tài sản ly hôn

 Những vụ tranh chấp tài sản ly hôn được dư luận quan tâm mà bạn có thể theo dõi đó là ly hôn giữa vợ chồng cà phê Trung Nguyên; vụ ly hôn của phó chủ tịch tập đoàn bảo sơn; vụ ly hôn của vợ chồng ông chủ tập đoàn Năm Sao….

 Bài tập chia tài sản khi ly hôn

Bài tập tình huống – Luật Hôn nhân và gia đình – Tài sản chung của vợ, chồng, phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

 Anh A và chị B kết hôn năm 1996 có đăng kí kết hôn và sinh sống tại phường T quận Y thành phố Hà Nội. Hai vợ chồng có tài sản chung là hai căn nhà tại phường M quận N, phường B quận X thành phố Hà Nội và 3 tỉ đồng. Sau một thời gian chung sống hại vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trong việc đầu tư mở công ti kinh doanh bất động sản nên anh chị A, B đã thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung để anh A tự mở công ti kinh doanh bất động sản. Tuy nhiên, để sự thỏa thuận của mình có giá trị về mặt pháp lí nên vợ chồng anh A và chị B gửi đơn ra Tòa án nhân dân yêu cầu công nhận sự thỏa thuận của mình về việc tự phân chia tài sản chung. Anh chị hãy xác định:

  1. a) Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của vợ chồng anh chị A, B theo thủ tục tố tụng dân sự hay không? Tại sao? Quan điểm cá nhân của anh chị về vấn đề này?
  2. b) Sau khi tự thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung thì chị B đi Úc học tập theo chương trình dài hạn 2 năm. Sau đó vợ chồng anh chị A, B phát sinh mâu thuẫn nên trong 2 tuần nghỉ phép chị B về nước gửi đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Y yêu cầu xin li hôn đối với anh A. Hỏi Tòa án nhân dân quận Y có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của chị A hay không? Tại sao?

 BÀI LÀM

  1. a) Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Tòa án nhân dân không có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của vợ chồng anh chị A, B theo thủ tục tố tụng dân sự.

 Về nguyên tắc, hầu hết các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình do Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh đều thuộc thẩm quyền dân sự của tòa án. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân cũng vậy. Căn cứ vào Điều 27, Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự những vụ việc về hôn nhân và gia đình sau đây:

 – Li hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi li hôn;

 – Các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân; về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi li hôn; về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ; về cấp dưỡng;

 – Các yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật; công nhận thuận tình li hôn, nuôi con, chia tài sản khi li hôn; hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi li hôn; chấm dứt việc nuôi con nuôi; tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng.

 Việc anh A và chị B thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân với lí do anh A muốn mở công ti kinh doanh bất động sản riêng là phù hợp với qui định của pháp luật (căn cứ vào Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình 2000). Tuy  nhiên  đối  với  yêu  cầu  về  công  nhận  thỏa  thuận  chia  tài  sản  chung  trong thời kì hôn nhân của anh A và chị B thì pháp luật tố tụng dân sự lại không có qui định. Do đó vấn đề này không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

 Quan điểm cá nhân về vấn đề này:  Theo quan điểm của người viết, pháp luật tố tụng dân sự nên hướng tới việc trao thẩm quyền giải quyết cho tòa án nhân dân đối với yêu cầu công nhận thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Người viết đưa ra quan điểm như vậy là dựa với các lí do:

 – Khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 qui định: “1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung… nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.” Như vậy cùng là một vụ việc dân sự – chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, nhưng tòa án lại chỉ có thẩm quyền giải quyết khi các bên không thể tự thỏa thuận và đưa yêu cầu ra tòa án (tức là đã phát sinh vụ án dân sự).

 Còn trường hợp như tình huống đưa ra là yêu cầu công nhận thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân – yêu cầu công nhận việc dân sự thì lại không qui định có thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân hay không? Rõ ràng điều này đã làm nảy sinh khá nhiều khó khăn trong thực tiễn giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, nhất là một khi có tranh chấp xảy ra. Do đó theo quan điểm người viết nên trao thẩm quyền này cho tòa  án.

 – Tại các Khoản 2, Khoản 3 Điều 28 BLTTDS 2004 pháp luật đã qui định tòa án  có  thẩm  quyền  giải  quyết  yêu  cầu  công  nhận  thỏa  thuận  của  vợ  chồng  về các vấn đề li hôn, nuôi con, chia tài sản khi li hôn, vậy cũng nên công nhận tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.

  Khoản  7  Điều  28  BLTTDS  2004  qui  định  tòa  án  có  thẩm  quyền  giải  quyết “các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có qui định”.  Vậy các yêu cầu khác ở đây được hiểu là những yêu cầu như thế nào? Pháp luật hiện hành chưa đưa ra một cách giải thích cụ thể, vì vậy thiết nghĩ cần có một qui định rõ ràng hơn để tránh tình trạng chồng chéo trong việc xác định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước.

  1. b) Tòa án nhân dân quận Y không có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của chị B.

 Căn cứ vào Khoản 3 Điều 33 BLTTDS 2004 thì tòa án nhân dân quận Y không có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp, yêu cầu qui định tại Khoản 1, Khoản 2 điều này mà có đương sự ở nước ngoài. Đương sự ở nước ngoài được giải thích tại điểm a tiểu mục 4.1 mục I nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP như  sau:  “Đương  sự  là  cá  nhân  không  phân  biệt  là  người  nước  ngoài  hay người Việt Nam mà không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Toà án thụ lý vụ việc dân sự; đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài hoặc người nước ngoài không ở Việt Nam có mặt tại Việt Nam để nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự hoặc đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà  án.”    Theo  đó,  chị  B  thuộc  trường  hợp  đương  sự  đang  học  tập  ở  nước ngoài và được coi là đương sự nước ngoài nên tòa án nhân dân quận Y không có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của chị B. Trường hợp này,  căn cứ vào điểm c  Khoản  1  Điều  34  BLTTDS  2004,  chị  B  phải  gửi  đơn  lên  tòa  án  nhân  dân thành phố Hà Nội.

  

  

 tag: bản cái xử ty