Quản trị doanh nghiệp là gì – Nguyên tắc quản trị doanh nghiệp

Quản trị doanh nghiệp là gì

 Quản trị doanh nghiệp là hệ thống các quy tắc, cơ chế, quy định mà thông qua đó doanh nghiệp được điều hành và kiểm soát. Về cơ bản, quản trị doanh nghiệp liên quan đến việc cân bằng lợi ích của các bên liên quan, chẳng hạn như cổ đông, người quản lý, khách hàng, nhà cung cấp, người xuất vốn, chính phủ và cộng đồng.

 Quản trị doanh nghiệp cũng lập ra các nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu của công ty, bao gồm tất cả các lĩnh vực quản trị từ kế hoạch thực hiện, quy trình kiểm soát nội bộ cho đến việc đo lường hiệu quả  và việc công bố thông tin công ty.

 Chức năng của quản trị doanh nghiệp

 Quản trị trong doanh nghiệp phải đảm bảo được 4 chức năng cơ bản: Chức năng kế hoạch và dự báo, Chức năng tổ chức thực hiện, Chức năng lãnh đạo, chỉ đạo, Chức năng kiểm tra kiểm soát và ra các quyết định điều chỉnh. Các chức năng này bắt buộc phải có mối quan hệ chặt chẽ trong một hệ thống quản trị thống nhất. Trong quản trị doanh nghiệp, các chức năng này cần được thực hiện một cách đồng bộ và phù hợp tạo ra sự cộng hưởng nhằm đảm bảo doanh nghiệp hoạt động liên tục và không ngừng phát triển, đạt được những mục tiêu chung đã đề ra.

 Chức năng kế hoạch và dự báo. Đây là chức năng cơ bản và đầu tiên của quá trình quản trị doanh nghiệp và phải đảm bảo dự báo được các nội dung sau: Tình hình và các môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, xây dựng mục tiêu, các nguồn lực cần có, trách nhiệm của các bên liên quan, các công việc chi tiết được thực hiện trong phạm vi nguồn lực và thời gian sẵn có, các điều kiện để hoàn thành được các mục tiêu đã đặt ra.

 Chức năng tổ chức thực hiện. Tổ chức thực hiện kế hoạch bao gồm tổ chức bộ máy và con người từ hình thành cơ cấu tổ chức cho đến phân công nhân lực, phân công công tác, phân bổ nguồn lực theo từng cá nhân, nhóm người, bộ phận chức năng trong một doanh nghiệp. Ngoài ra việc tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh còn bao gồm việc xây dựng và ban hành chính sách, các cơ chế phối hợp hoạt động trong doanh nghiệp để đảm bảo toàn bộ các hoạt động được thực hiện một cách hiệu quả nhất.

 Chức năng lãnh đạo, chỉ đạo
Đây là chức năng có sự đa dạng về nghệ thuật quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp. Chức năng này là việc lãnh đạo quá trình thực hiện bao gồm nhiều hoạt động liên quan đến cơ chế, chính sách hành vi, phong cách làm việc và quản trị nhằm khuyến khích nhân viên nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ của mình.

 Chức năng kiểm tra kiểm soát và ra các quyết định điều chỉnh trong quá trình kinh doanh
Kiểm tra, theo dõi quá trình hoạt động của doanh nghiệp thông qua việc thiết lập hệ thống thông tin quản lý và thu thập các thông tin cần thiết nhằm nắm bắt tình hình thực tế các công việc so với kế hoạch đã đề ra. Chức năng này rất quan trọng, đảm bảo kế hoạch thực hiện đúng hoặc có những điều chỉnh cần thiết, kịp thời, sát với thực tế.

Nguyên tắc quản trị doanh nghiệp

 Trên thực tế có rất nhiều lý thuyết và nguyên tắc quản trị doanh nghiệp được chia sẻ. Mỗi lý thuyết, nguyên tắc được tạo ra đều nhằm giúp cho việc tổ chức và quản trị tổ chức đạt hiệu quả cao khi doanh nghiệp nhận thức và vận dụng được các quy luật này. Cho đến thời điểm hiện nay, bộ 14 nguyên tắc của Fayol(1) là một trong những lý thuyết đầu tiên về quản lý được tạo ra, và được xem là toàn diện nhất.

 14-nguyen-tac-quan-tri-cua-fayol

 1. Chuyên môn hóa/Phân công hóa lao động nhằm thúc đẩy sự tập trung và hiệu quả trong công việc của người lao động và doanh nghiệp, đảm bảo công việc được hoàn thành nhanh chóng.

 2. Thẩm quyền phải đi kèm với trách nhiệm tương ứng. Để làm tròn trách nhiệm thì thẩm quyền phải được cấp hợp lý, bao gồm cả quyền yêu cầu những cá nhân có liên quan cùng tham gia. Và trên hết người có quyền quyết định phải chịu trách nhiệm về quyết định mình đưa ra để tránh dẫn tới thói vô trách nhiệm và hậu quả xấu.

 3. Kỷ luật. Kỷ luật bao gồm các tiêu chuẩn, thống nhất trong hành động, sự tuân thủ quy tắc và các giá trị, là yếu tố then chốt để một doanh nghiệp hoạt động trơn tru.

 4. Thống nhất về mệnh lệnh. Nguyên tắc này có nghĩa là nhân viên chỉ được nhận mệnh lệnh từ một lãnh đạo mà thôi.. Bởi vì các nhà lãnh đạo ra có thể sẽ đưa ra những yêu cầu trái ngược nhau cho cùng một công việc khiến nhân viên rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.

 5. Thống nhất về đường lối. Các nhóm làm việc có cùng mục tiêu nên làm việc dưới sự lãnh đạo của một người đứng đầu và có một kế hoạch thống nhất nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, thuần nhất trong mọi hoạt động.

 6. Lợi ích chung cần đặt lên trên hết. Nếu hiểu các nguyên tắc của Fayol được xây dựng với giả định mọi lợi ích và quyết định của tổ chức đều trung lập và có lý thì nguyên tắc này yêu cầu lợi ích của một nhân viên hay nhóm không được đặt cao hơn lợi ích chung của tổ chức. Và khi có sự khác biệt không thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung thì nhiệm vụ của cấp quản trị là phải hòa giải hợp lý.

 7. Thù lao. Mức thù lao cần phải công bằng và thỏa mãn cho cả nhân viên và chủ doanh nghiệp.

 8. Tập trung hóa. Đây là nguyên tắc thiết yếu của mọi tổ chức và là hệ quả tất yếu của quá trình cơ cấu. Ngay cả ở trong những tổ chức có cấu trúc phẳng và quyền lực phân hóa vẫn tập trung vào tay một số người mà thôi.

 9. “Xích lãnh đạo”. Mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên cũng như mệnh lệnh từ trên xuống dưới cần được đảm bảo nguyên tắc rõ ràng, hợp lý, hai bên cùng hiểu, đảm bảo vận dụng linh hoạt, không cứng nhắc.

 10. Trật tự. Mọi doanh nghiệp nên để cho mỗi nhân viên có chỗ đứng riêng, có bổn phận phù hợp với tổ chức, luôn cảm thấy tự tin và an toàn trong môi trường làm việc. Vật nào, người nào cũng có chỗ riêng của nó, cần phải đặt cho đúng vật nào, người nào vào chỗ nấy.

 11. Sự công bằng. Sự công bằng và công lý nên thấm nhuần vào tư tưởng của tổ chức – cả trong nguyên tắc lẫn hành động nhằm tạo nên lòng trung thành và sự tận tụy của nhân viên đối với doanh nghiệp.

 12. Ổn định nhiệm vụ. Các nhân viên cần có thời gian để thích ứng và thực hiện công việc một cách hiệu quả nhất. Sự ổn định đảm bảo cho các hoạt động có mục tiêu rõ ràng và điều kiện để chuẩn bị chu đáo.

 13. Sáng kiến. Ở mọi cấp bậc trong cơ cấu tổ chức, sự nhiệt huyết, nhiệt tình và cống hiến đều đến từ những người có cơ hội thể hiện những sáng kiến cá nhân của mình.

 14. Tinh thần đoàn kết. Việc xây dựng và duy trì sự hòa hợp giữa các mối quan hệ trong công việc là vô cùng cần thiết. Sự thống nhất, sự đoàn kết nhất trí trong một doanh nghiệp sẽ mang lại những hiệu quả to lớn.

 Nguồn: Tổng hợp

 (1) Henri Fayol (1841 – 1925) là một tác giả, kỹ sư, chủ khai thác, giám đốc mỏ và cũng đồng thời là người đã phát triển học thuyết chung về quản trị kinh doanh hay thường được biết với tên gọi là học thuyết Fayol (Fayolism). (Theo Wikipedia)

Quản trị rủi ro doanh nghiệp

 Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp là việc giúp doanh nghiệp kiểm soát và hạn chế thấp nhất thiệt hại khi các rủi ro xảy ra thông qua việc kịp thời triển khai các giải pháp ứng phó đã được chuẩn bị trước đó. Được xem là tuyến phòng thủ thứ hai của doanh nghiệp, có vai trò quan trọng trong việc giám sát việc kiểm soát của tuyến phòng thủ thứ nhất (cấp quản lý vận hành), cũng như xác định các rủi ro có thể xảy ra, xây dựng và thực hiện quy trình quản trị rủi ro hiệu quả để góp phần bảo vệ tài sản, phát hiện và phòng ngừa các sai sót và gian lận trong doanh nghiệp

 Tại Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng đã và đang tham gia tích cực vào việc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro doanh nghiệp theo thông lệ tốt, trong khi đó phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước chưa xây dựng hệ thống quản trị rủi ro doanh nghiệp. Lý do là hệ thống văn bản pháp lý chưa có những quy định, hướng dẫn cụ thể về quản trị rủi ro trong doanh nghiệp, bên cạnh đó vấn đề thiếu hụt nhân sự có kiến thức chuyên sâu và kỷ năng cần thiết để quản trị rủi ro doanh nghiệp.

  

  

  

  

 Tag: vừa nhỏ khóa bài tiếng anh thương mại erp cáo giáo pdf mô viện lớp ngành đại nghị 71 chúng 0 file excel erm phí dòng tiền online ngắn nông cẩm nang khái niệm lời tri ví dụ sơ đồ liệu mẫu dược cuốn 246 câu hỏi đáp án trạng