Công tác kiểm tra giám sát của chi bộ

 Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khoá X

 (Kèm theo Quyết định số 25-QĐ/TW ngày 24-11-2006 của Bộ Chính trị)

 Phần thứ nhất
CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG VÀ ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP

 I. CÔNG TÁC KIỂM TRA GIÁM SÁT CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG
Điều 30:
1. Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng
1. Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát thì coi như không có lãnh đạo
2- Các tổ chức đảng vừa là chủ thể, vừa là đối tượng kiểm tra, gồm có: chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở; cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp, uỷ ban kiểm tra, các ban đảng, văn phòng cấp uỷ; ban cán sự đảng, đảng đoàn.
3- Các tổ chức đảng là chủ thể giám sát gồm có: Chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở; cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp; uỷ ban kiểm tra, các ban đảng, văn phòng cấp uỷ.
4- Các tổ chức đảng là đối tượng giám sát, gồm có: chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ bộ phận), đảng uỷ bộ phận, đảng uỷ cơ sở, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, thường trực cấp uỷ các cấp; uỷ ban kiểm tra, các ban đảng, văn phòng cấp uỷ; ban cán sự đảng, đảng đoàn; các tiểu ban, hội đồng, tổ công tác do cấp uỷ các cấp lập ra.
5- Giám sát của Đảng là việc các cấp uỷ, tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Tổ chức đảng cấp trên được giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; đảng viên được tham gia giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.
2. Các cấp uỷ đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng
1- Công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ tỉnh, thành phố, huyện, quận và tương đương
1) Công tác kiểm tra:
a. Lãnh đạo công tác kiểm tra:
Cấp uỷ, trước hết là ban thường vụ cấp uỷ xây dựng và chỉ đạo các cấp uỷ thuộc phạm vi quản lý của cấp mình xây dựng phương hướng nhiệm vụ công tác kiểm tra trong từng thời gian; chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc cấp uỷ cấp dưới thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra.
Triển khai, quán triệt các quy định của Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định, quy định, quy chế của cấp uỷ cấp trên và cấp mình về công tác kiểm tra đối với các tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của cấp mình.
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy định về sự phối hợp giữa các ban đảng, các ban đảng với ban cán sự đảng của cơ quan thanh tra, cơ quan pháp luật để làm tốt công tác kiểm tra.
Định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến chỉ đạo về việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy chế làm việc; giải quyết những kiến nghị của các tổ chức đảng cấp dưới và định kỳ sơ kết, tổng kết về công tác kiểm tra.
Lãnh đạo, chỉ đạo về tổ chức và hoạt động của uỷ ban kiểm tra; xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra.
b. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra:
Cấp uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện công tác kiểm tra, trong đó, xác định rõ nội dung, đối tượng, thời gian, phương pháp tiến hành, tổ chức lực lượng, phân công cụ thể từng cấp uỷ viên và các ban, ban cán sự đảng, đảng đoàn của cấp mình tiến hành kiểm tra.
– Nội dung kiểm tra:
Kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của cấp uỷ cấp trên và của cấp uỷ cấp mình; các nguyên tắc tổ chức của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; giữ gìn đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của đảng viên; chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tế ở đảng bộ mà cấp uỷ chọn nội dung kiểm tra cho phù hợp.
– Đối tượng kiểm tra:
Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của cấp mình, trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp và cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp mình quản lý, cán bộ giữ các cương vị chủ chốt hoặc được giao các nhiệm vụ quan trọng và tập trung kiểm tra các tổ chức đảng ở những địa bàn trọng điểm, trọng yếu, dễ phát sinh vi phạm.
– Cách tiến hành:
+ Xây dựng kế hoạch theo chương trình công tác kiểm tra hằng năm, 6 tháng,… (xác định rõ nội dung, đối tượng, trọng tâm, trọng điểm, hình thức, thời gian, thời điểm kiểm tra…).
+ Trực tiếp tiến hành kiểm tra ở một số lĩnh vực quan trọng, địa bàn trọng điểm; huy động lực lượng các ban của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn của các ngành có liên quan tham gia (lập tổ hoặc đoàn kiểm tra). Đồng chí cấp uỷ viên được phân công chủ trì chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng kế hoạch, chỉ đạo thực hiện và báo cáo cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ xem xét, kết luận các cuộc kiểm tra.
+ Giao các ban của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn (trực thuộc) chủ trì thực hiện một số cuộc kiểm tra theo chức trách, nhiệm vụ của các tổ chức đảng.
+ Các thành viên của cấp ủy xây dựng kế hoạch kiểm tra về các nội dung thuộc nhiệm vụ được cấp uỷ phân công phụ trách, đề xuất kiểm tra chuyên sâu một số vấn đề đối với các tổ chức đảng cấp dưới.
+ Cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ trực tiếp kết luận các cuộc kiểm tra do cấp uỷ chủ trì.
Qua kiểm tra, cấp uỷ nhận xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) và nguyên nhân; rút ra những kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện; bổ sung, sửa đổi những vấn đề cần thiết; phát hiện những nhân tố mới, biểu (dương, khen thưởng những tổ chức đảng và đảng viên chấp hành tốt; phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm; phê bình tổ chức đảng và đảng viên có khuyết điểm, kịp thời xem xét, kết luận, xử lý kỷ luật hoặc đề nghị cấp trên xem xét, xử lý kỷ luật theo thẩm quyền những trường hợp vi phạm đến mức phải xử lý. Những trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì chuyển cơ quan pháp luật có thẩm quyền xem xét, xử lý.
2) Công tác giám sát:
a. Lãnh đạo công tác giám sát:
– Xây dựng và chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới thuộc phạm vi quản lý của cấp mình xây dựng phương hướng nhiệm vụ công tác giám sát; phân công cấp uỷ viên, các ban của cấp uỷ cấp tỉnh thực hiện giám sát đối với tổ chức đảng cấp dưới.
– Ban hành văn bản theo thẩm quyền làm căn cứ để các tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ giám sát và để các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia giám sát.
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy định về sự phối hợp giữa, các tổ chức đảng để thực hiện công tác giám sát.
– Định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến chỉ đạo về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát theo quy chế làm việc; giải quyết những kiến nghị của các tổ chức đảng cấp dưới; sơ kết, tổng kết về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát của cấp mình.
Đề xuất với cấp có thẩm quyền về những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành các hướng dẫn mới về nghiệp vụ công tác giám sát cho phù hợp.
b. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát:
Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện việc giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của cấp mình. Xác định nội dung, đối tượng, phương pháp tiến hành, tổ chức lực lượng, phân công cụ thể cho từng cấp uỷ viên và các ban của cấp uỷ cấp mình thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Đối tượng giám sát:
Ban chấp hành giám sát:
+ Ban thường vụ, thường trực cấp uỷ cùng cấp;
+ Uỷ ban kiểm tra cùng cấp;
+ Tổ chức đảng trực thuộc, trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp;
+ Đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp mình quản lý.
Ban thường vụ cấp uỷ giám sát:
+ Các ban tham mưu, giúp việc của cấp uỷ cấp mình;
+ Các tiểu ban, hội đồng, tổ công tác do cấp uỷ cấp mình lập ra;
+ Tổ chức đảng trực thuộc, trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp;
+ Đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp mình quản lý.
– Nội dung giám sát:
Giám sát đối với tổ chức đảng:
+ Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của cấp uỷ cấp trên và cấp uỷ cấp mình; chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Việc quán triệt và chấp hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và quy chế làm việc của cấp uỷ việc bảo đảm quyền của đảng viên.
+ Việc chấp hành các quy định của Đảng, Nhà nước trong công tác tổ chức, cán bộ; việc thực hiện giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng.
+ Việc chấp hành kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên; giữ gìn đoàn kết nội bộ, quản lý, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của đảng viên.
Giám sát đối với đảng viên:
Ngoài những nội dung giám sát như đối với tổ chức đảng, cấp uỷ còn giám sát đảng viên trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống và giữ mối liên hệ với tổ chức đảng nơi cư trú.
– Cách tiến hành giám sát:
+ Xem xét báo cáo hoạt động của ban thường vụ giữa hai kỳ họp của cấp uỷ.
+ Dự các cuộc họp định kỳ, đột xuất của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cấp dưới trực tiếp.
+ Định kỳ hoặc đột xuất, theo quy chế làm việc, cấp uỷ nghe các tổ chức đảng cấp dưới (cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra, các ban tham mưu, ban cán sự đảng, đảng đoàn…) báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng đảng, công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ; kết quả kiểm điểm, tự phê bình và phê bình của tập thể lãnh đạo các tổ chức đó.
+ Nắm tình hình hoạt động tự phê bình và phê bình, báo cáo kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và về phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp uỷ viên cùng cấp và cán bộ diện cấp uỷ quản lý.
+ Thông qua phản ánh, trao đổi của các cơ quan bảo vệ pháp luật, của các đoàn thể chính trị – xã hội, phản ánh của quần chúng nhân dân, qua các phương tiện thông tin đại chúng; thông qua đơn thư tố cáo, khiếu nại kỷ luật để nắm tình hình liên quan đến cán bộ, đảng viên.
+ Thông qua các văn bản, báo cáo của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới gửi cấp uỷ cấp trên theo quy định.
– Thẩm quyền và trách nhiệm:
+ Phân công cấp uỷ viên dự các cuộc họp, hội nghị của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới thuộc phạm vi phụ trách.
+ Cấp uỷ viên khi thực hiện giám sát theo thẩm quyền được yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới, các tổ chức có liên quan và đảng viên cung cấp thông tin, văn bản, tài liệu, hoặc báo cáo những nội dung theo yêu cầu giám sát.
Cấp uỷ viên có trách nhiệm báo cáo kết quả giám sát bằng văn bản cho ban thường vụ hoặc cho cấp uỷ biết để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo; chịu trách nhiệm về việc giám sát theo thẩm quyền của mình trước cấp uỷ; giữ bí mật về nội dung thông tin, văn bản, tài liệu cung cấp cho việc giám sát.
+ Đối với những tổ chức đảng cấp dưới có khuyết điểm, yếu kém, vi phạm đã được kết luận, cấp uỷ cử cấp uỷ viên đến tổ chức đảng đó trực tiếp chỉ đạo, giám sát việc khắc phục yếu kém, sửa chữa khuyết điểm, vi phạm.
+ Qua giám sát đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, định kỳ hằng năm (hoặc đột xuất), cấp uỷ nhận xét, đánh giá về ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) và nguyên nhân; rút ra những kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, về tổ chức thực hiện; bổ sung, sửa đổi những vấn đề cần thiết; phát hiện những nhân tố mới…
Nếu phát hiện tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên không thực hiện, thực hiện không đúng nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, hoặc có hành vi ban hành quyết định, quy định trái với nghị quyết, chỉ thị quy định của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và của cấp mình, trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước thì có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên khắc phục, sửa chữa; nếu không khắc phục, sửa chữa thì xem xét, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp uỷ cấp trên xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên có liên quan; nếu cần thiết thì yêu cầu huỷ bỏ các quyết định, quy định sai trái đó.
Nếu phát hiện tổ chức đảng hoặc đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì giao cho uỷ ban kiểm tra tiến hành kiểm tra, xem xét, kết luận.
2- Công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng ở cơ sở
1) Công tác kiểm tra:
Đảng uỷ, ban thường vụ đảng uỷ cơ sở có nhiệm vụ lãnh đạo công tác kiểm tra như đã nêu ở điểm a (mục 1) và tổ chức tiến hành kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của cấp mình trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên và của cấp mình; việc giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên. Tập trung kiểm tra những tổ chức đảng và đảng viên được giao những nhiệm vụ quan trọng liên quan trực tiếp đến phát huy dân chủ ở cơ sở, phát triển kinh tế, thực hiện chính sách xã hội, chăm lo đời sống, giải quyết việc làm cho nhân dân; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác. Coi trọng kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tự phê bình và phê bình, giữ gìn đoàn kết, thống nhất nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của đảng viên.
Cách tiến hành kiểm tra của đảng uỷ, ban thường vụ đảng uỷ cơ sở thực hiện như trình bày ở điểm b (mục 1), song cần chú ý: qua hội ý, nắm tình hình giữa ban thường vụ đảng uỷ với các chi uỷ, với chính quyền, các ban, ngành và các đoàn thể; qua sinh hoạt thường kỳ của đảng uỷ và ban thường vụ đảng uỷ; qua sơ kết, tổng kết công tác lãnh đạo và kiểm tra, công tác chuyên môn… mà đảng uỷ, ban thường vụ đảng uỷ tự kiểm tra mình và kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình. Cùng với việc kiểm tra thường xuyên, đảng uỷ, ban thường vụ đảng uỷ cơ sở có chương trình, kế hoạch định kỳ kiểm tra (ba tháng, sáu tháng, theo thời vụ hoặc chu kỳ sản xuất,…) đối với các tổ chức đảng và đảng viên. Qua kiểm tra, phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm và kịp thời xử lý vi phạm (nếu có).
– Đảng uỷ bộ phận xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ của mình và do đảng uỷ cơ sở giao.
– Chi bộ bao gồm chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ sở và chi bộ trong đảng bộ bộ phận) có nhiệm vụ kiểm tra mọi đảng viên sinh hoạt trong chi bộ. Nội dung kiểm tra như nội dung kiểm tra của đảng uỷ cơ sở. Tập trung kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của chi bộ, thực hiện nhiệm vụ do chi bộ phân công và theo tiêu chuẩn đảng viên.
Chi bộ kiểm tra đảng viên thông qua sinh hoạt thường kỳ (kiểm điểm công tác lãnh đạo, tự phê bình và phê bình, học tập nghị quyết.. ); phân tích chất lượng đảng viên; nhận xét, đánh giá, phản ánh của các tổ chức đoàn thể và nhân dân đối với tổ chức đảng và đảng viên; nghiên cứu, khảo sát nắm tình hình theo yêu cầu của cấp uỷ; sơ kết, tổng kết công tác, sản xuất, kinh doanh,… của đơn vị và thông báo của tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên để đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của đảng viên, kịp thời phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, chủ động phòng ngừa và phát hiện dấu hiệu vi phạm của đảng viên.
Chi bộ có kế hoạch kiểm tra chấp hành đối với đảng viên trong việc quán triệt và thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhất là đối với những đảng viên được giao các nhiệm vụ quan trọng. Khi đảng viên có dấu hiệu vi phạm hoặc bị tố cáo, chi bộ kịp thời xem xét hoặc báo cáo tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Nếu đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật, chi bộ quyết định hoặc đề nghị cấp trên quyết định thi hành kỷ luật theo thẩm quyền.
2) Công tác giám sát:
Đảng uỷ, ban thường vụ đảng uỷ cơ sở có nhiệm vụ lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác giám sát như đã nêu trên đối với cấp uỷ các cấp. Tập trung giám sát những tổ chức đảng và đảng viên được giao những nhiệm vụ quan trọng liên quan trực tiếp đến phát huy dân chủ ở cơ sở, phát triển kinh tế, thực hiện chính sách xã hội, chăm lo đời sống, giải quyết việc làm cho nhân dân; thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác. Coi trọng giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tự phê bình và phê bình, giữ gìn đoàn kết, thống nhất nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của đảng viên.
Cách tiến hành giám sát của đảng uỷ, ban thường vụ đảng uỷ cơ sở: chủ yếu thông qua hội ý, nắm tình hình giữa ban thường vụ đảng uỷ với các chi uỷ, với chính quyền, các ban, ngành và các đoàn thể; qua sinh hoạt thường kỳ của đảng uỷ và ban thường vụ đảng uỷ; phân công đảng uỷ viên dự sinh hoạt của các chi bộ qua sơ kết, tổng kết công tác đảng và công tác chuyên môn…
– Đảng uỷ bộ phận thực hiện nhiệm vụ giám sát theo chức năng, nhiệm vụ của mình và do đảng uỷ cơ sở giao. Nội dung, hình thức, cách tiến hành, thẩm quyền và trách nhiệm giám sát như của đảng uỷ cơ sở.
– Chi bộ giám sát mọi đảng viên sinh hoạt trong chi bộ. Nội dung giám sát như nội dung giám sát của đảng uỷ cơ sở. Tập trung giám sát việc thực hiện nghị quyết của chi bộ, thực hiện nhiệm vụ do chi bộ phân công và theo nhiệm vụ, tiêu chuẩn đảng viên; việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống và giữ mối liên hệ với tổ chức đảng nơi cư trú.
Chi bộ giám sát đảng viên thông qua sinh hoạt thường kỳ (kiểm điểm công tác lãnh đạo, tự phê bình và phê bình,…); phân tích chất lượng đảng viên; qua theo dõi, đôn đốc đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao; qua yêu cầu đảng viên báo cáo khi cần thiết; nhận xét, đánh giá phản ánh của các tổ chức đoàn thể và nhân dân đối với tổ chức đảng và đảng viên; nghiên cứu, khảo sát nắm tình hình theo yêu cầu của cấp uỷ; sơ kết, tổng kết công tác, sản xuất, kinh doanh,… của đơn vị để đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của đảng viên, kịp thời phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, chủ động phòng ngừa vi phạm của đảng viên.
Qua giám sát, nếu phát hiện đảng viên có dấu hiệu vi phạm hoặc bị tố cáo, chi bộ kịp thời xem xét hoặc báo cáo tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
3. Công tác kiểm tra, giám sát của các ban của cấp uỷ
a. Công tác kiểm tra của các ban của cấp uỷ:
Các ban của cấp uỷ phối hợp với uỷ ban kiểm tra tham mưu, giúp cấp uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra hàng năm thuộc lĩnh vực ban mình phụ trách; tham gia các cuộc kiểm tra của cấp uỷ hoặc chủ trì kiểm tra khi được cấp uỷ giao; xây dựng chương trình, kế hoạch và chủ động tiến hành kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới; giúp cấp uỷ theo dõi, đôn đốc tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra chấp hành nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước; tham gia ý kiến và giúp cấp uỷ kết luận các nội dung kiểm tra thuộc lĩnh vực được giao.
– Nội dung kiểm tra: Những nội dung liên quan đến chức trách, nhiệm vụ, lĩnh vực công tác của ban mình và những nội dung do cấp uỷ giao.
– Đối tượng kiểm tra: Các cấp uỷ cấp dưới, trước hết là cấp uỷ cấp dưới trực tiếp và các ban của cấp uỷ cấp dưới trực tiếp thuộc lĩnh vực công tác do ban mình phụ trách và các đối tượng khác do cấp uỷ giao.
– Cách tiến hành: Sử dụng bộ máy của ban để kiểm tra hoặc phối hợp với uỷ ban kiểm tra (dưới sự chỉ đạo của cấp uỷ hoặc theo quy định của cấp uỷ về phối hợp kiểm tra) để kiểm tra.
Qua kiểm tra các ban kết luận về những nội dung được kiểm tra, báo cáo cấp uỷ cùng cấp về kết quả kiểm tra và những kiến nghị cần thiết.
b. Công tác giám sát của các ban của cấp uỷ:
Các ban của cấp uỷ phối hợp với uỷ ban kiểm tra tham mưu, giúp cấp uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát hằng năm thuộc lĩnh vực ban mình phụ trách; xây dựng chương trình, kế hoạch và chủ động tiến hành giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị. Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước thuộc lĩnh vực công tác do ban mình phụ trách.
– Đối tượng giám sát:
+ Các thành viên của tổ chức mình.
+ Cấp uỷ và các ban của cấp uỷ cấp dưới và đảng viên thuộc lĩnh vực công tác do ban mình phụ trách.
– Nội dung giám sát:
+ Những nội dung liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thuộc lĩnh vực công tác do ban mình phụ trách trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Những nội dung do cấp uỷ giao.
– Cách tiến hành:
+ Giám sát các thành viên của tổ chức mình thông qua sinh hoạt thường kỳ (kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn, tự phê bình và phê bình,…); phân tích chất lượng đảng viên; nhận xét, đánh giá, phản ánh của các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân đối với tổ chức đảng và đảng viên.
Nghe các thành viên trong tổ chức mình trực tiếp báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ theo chức trách, nhiệm vụ được giao và kết quả giám sát thuộc phạm vi được phân công phụ trách.
Nghe cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới, các đơn vị tham mưu, giúp việc của tổ chức mình phản ánh, báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ và việc thực hiện nhiệm vụ giám sát được giao.
+ Cử cán bộ, chuyên viên theo dõi, trực tiếp làm việc, dự họp với cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới.
– Thẩm quyền và trách nhiệm:
+ Các thành viên các ban của cấp uỷ và cán bộ, chuyên viên được phân công theo dõi lĩnh vực địa bàn khi thực hiện việc giám sát theo thẩm quyền được yêu cầu tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi phụ trách báo cáo, cung cấp văn bản, tài liệu liên quan đến việc giám sát và phải giữ bí mật nội dung văn bản, tài liệu đó.
+ Qua giám sát, các ban của cấp uỷ kịp thời nhắc nhở đối tượng được giám sát phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm; nếu phát hiện tổ chức đảng hoặc đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì báo cáo hoặc đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
+ Nếu phát hiện tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên không thực hiện, thực hiện không đúng nghị quyết, chỉ thị của Đảng, hoặc ban hành quyết định, quy định trái với nghị quyết, quy định của Đảng, của cấp uỷ cấp trên, trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước thì báo cáo cấp uỷ cấp mình xem xét, giải quyết.
Trường hợp các ban của cấp uỷ cấp dưới ban hành các quy định trái với quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì các ban của cấp uỷ cấp trên có quyền yêu cầu huỷ bỏ hoặc đề nghị cấp uỷ quản lý tổ chức đó xem xét, quyết định.
4- Công tác kiểm tra của các ban cán sự đảng, đảng đoàn
Các ban cán sự đảng, đảng đoàn tham gia các cuộc kiểm tra của cấp uỷ cấp trên trực tiếp hoặc chủ trì kiểm tra khi được cấp uỷ cấp trên trực tiếp giao; xây dựng chương trình, kế hoạch và chủ động tiến hành kiểm tra.
Các ban cán sự đảng, đảng đoàn căn cứ quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc của tỉnh, thành uỷ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế làm việc của mình để xác định rõ nội dung, đối tượng và cách tiến hành kiểm tra cho phù hợp với phạm vi lãnh đạo của mình
– Nội dung kiểm tra:
Việc tổ chức quán triệt và thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phương hướng, nhiệm vụ chính trị; công tác tổ chức, cán bộ; những nội dung liên quan đến chức trách, nhiệm vụ, lĩnh vực được phân công phụ trách và những nội dung do cấp uỷ giao.
– Đối tượng kiểm tra:
Các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống quản lý trực tiếp.
– Cách tiến hành:
+ Ban cán sự đảng, đảng đoàn chủ trì hoặc phối hợp với đảng uỷ cơ quan, tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị – xã hội cùng cấp; hoặc sử dụng bộ máy của bộ, ban, ngành, đoàn thể mình (nhất là lực lượng thanh tra ngành, thanh tra nhân dân); hoặc phối hợp với uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ cấp trên trực tiếp (theo quy định của cấp uỷ về phối hợp kiểm tra) để tiến hành kiểm tra.
+ Phối hợp với các tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống quản lý và cấp uỷ khối hoặc cấp uỷ địa phương nơi quản lý các tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị đó để tiến hành kiểm tra.
+ Qua kiểm tra, các ban cán sự đảng, đảng đoàn kết luận về những nội dung được kiểm tra báo cáo cấp uỷ cấp trên trực tiếp, đồng thời gửi báo cáo kết quả kiểm tra và nhũng đề xuất, kiến nghị cho uỷ ban kiểm tra cấp uỷ cấp trên trực tiếp.
5- Uỷ ban kiểm tra giúp cấp uỷ hoặc ban thường vụ, cấp uỷ tiến hành công tác kiểm tra, giám sát theo Điều 30, Điều lệ Đảng, uỷ công tác kiểm tra, giám sát và việc thi hành kỷ luật đảng. Cụ thể:
– Phối hợp với văn phòng và các ban của cấp uỷ giúp cấp uỷ tổ chức quán triệt trong đảng bộ về thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ và của các tổ chức đảng; xây dựng phương hướng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp uỷ và ban thường vụ cấp uỷ trong từng thời gian; xây dựng quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát; giải quyết tố cáo, khiếu nại, xử lý kỷ luật.
– Tham mưu cho cấp uỷ về nội dung, đối tượng, phương pháp kiểm tra, giám sát; thời gian, thời điểm kiểm tra phân công nhiệm vụ cho các ban của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn; tổ chức lực lượng kiểm tra, giám sát; giải quyết các kiến nghị của các tổ chức đảng cấp dưới về công tác kiểm tra, giám sát và việc thi hành kỷ luật đảng.
– Hướng dẫn tổ chức đảng cấp dưới, các ban của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn trực thuộc và chỉ đạo, hướng dẫn uỷ ban kiểm tra cấp dưới về nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát.
– Tham gia các cuộc kiểm tra do cấp uỷ chủ tra. Khi có yêu cầu, tham gia những cuộc kiểm tra do các ban của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn chủ trì. Qua kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện có trường hợp vi phạm đến mức phải xử lý thì xem xét, quyết định hoặc đề nghị cấp uỷ xem xét, quyết định xử lý kỷ luật.
– Cùng với văn phòng và các ban của cấp uỷ có liên quan giúp cấp uỷ kết luận các cuộc kiểm tra và sơ kết, tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các kết luận của cấp uỷ sau các cuộc kiểm tra; quản lý hồ sơ các cuộc kiểm tra của cấp uỷ.
6- Một số lưu ý trong việc thực hiện Điều 30, Điều lệ Đảng
Tổ chức đảng cấp trên được quyền giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Đảng viên không được tự ý giám sát, chỉ được tham gia giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.
Ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tiểu ban, hội đồng, tổ công tác do cấp uỷ các cấp lập ra là đối tượng giám sát, không phải là chủ thể giám sát.
– Khi kiểm tra theo Điều 30, Điều lệ Đảng, cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ phải có kết luận trong trường hợp trực tiếp kiểm tra và cả trường hợp cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ giao cho các tổ chức đảng giúp mình kiểm tra.
– Các ban của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn không có thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng, nếu qua kiểm tra phát hiện tổ chức đảng hoặc đảng viên có dấu hiệu vi phạm hoặc vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì báo cáo với cấp uỷ và thông báo cho uỷ ban kiểm tra cùng cấp xem xét, quyết định.
– Theo quy định của Điều lệ Đảng, tổ chức đảng quân sự, biên phòng địa phương và tổ chức đảng công an nhân dân địa phương cấp nào thì đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp uỷ cấp đó. Do vậy, việc kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng quân sự, biên phòng địa phương và tổ chức đảng công an nhân dân địa phương xong việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng (bao gồm cả nghị quyết, chỉ thị của đảng uỷ quân sự, đảng uỷ bộ đội biên phòng, đảng uỷ công an nhân dân cấp trên) là nhiệm vụ của cấp uỷ địa phương, do cấp uỷ địa phương chủ động, trực tiếp tiến hành, có sự phối hợp với đảng uỷ quân sự cấp trên hoặc với đảng uỷ công an nhân dân cấp trên nhưng đều do cấp uỷ địa phương chủ trì và kết luận.
II. CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA UỶ BAN KIỂM TRA CÁC CẤP
Điều 31:
1. Uỷ ban kiểm tra các cấp do cấp uỷ cùng cấp bầu, gồm một số đồng chí trong cấp uỷ và một số đồng chí ngoài cấp uỷ
1- Nguyên tắc tổ chức
Uỷ ban kiểm tra các cấp được lập từ đảng uỷ cơ sở trở lên, do hội nghị cấp uỷ cùng cấp bầu; bầu uỷ viên uỷ ban kiểm tra trước, sau đó bầu chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra trong số uỷ viên uỷ ban kiểm tra. Phó chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra do uỷ ban kiểm tra bầu trong số uỷ viên uỷ ban kiểm tra. Việc bầu cử được tiến hành bằng phiếu kín.
– Nhiêm kỳ của uỷ ban kiểm tra các cấp theo nhiệm kỳ của cấp uỷ cùng cấp. Uỷ ban kiểm tra khoá mới điều hành công việc ngay sau khi được bầu; nhận bàn giao từ uỷ ban kiểm tra khoá trước.
2- Cơ cấu tổ chức và số lượng uỷ viên uỷ ban kiểm tra
– Uỷ ban kiểm tra của tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương:
+ Số lượng từ 7 đến 11 uỷ viên (do tỉnh uỷ, thành ủy quyết định), trong đó có 2 uỷ viên kiêm chức; riêng Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hoá, Nghệ An cần đủ 11 uỷ viên. Trường hợp đặc biệt thì cấp uỷ trao đổi với Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương để báo cáo Ban Bí thư xem xét, quyết định.
+ Các uỷ viên chuyên trách gồm: chủ nhiệm, 2 hoặc 3 phó chủ nhiệm và một số uỷ viên. Trong đó, 1 uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ làm chủ nhiệm và một cấp uỷ viên làm phó chủ nhiệm thường trực.
+ Uỷ viên kiêm chức gồm: trưởng ban hoặc phó trưởng ban tổ chức của cấp uỷ là cấp uỷ viên và chánh thanh tra tỉnh, thành phố.
– Uỷ ban kiểm tra của đảng uỷ khối cơ quan Trung ương:
+ Số lượng từ 7 đến 9 uỷ viên (do đảng uỷ khối quyết định), trong đó có từ 3 đến 5 uỷ viên chuyên trách.
+ Uỷ ban kiểm tra có 1 đến 2 cấp uỷ viên, trong đó có 1 uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ làm chủ nhiệm.
+ Uỷ viên chuyên trách là chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm.
+ Uỷ viên kiêm chức là cấp uỷ viên phụ trách công tác tổ chức, cấp uỷ viên phụ trách công tác khác hoặc bí thư, phó bí thư, chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra đảng uỷ trực thuộc đảng uỷ khối.
– Uỷ ban kiểm tra trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ:
+ Uỷ ban kiểm tra huyện uỷ, đảng uỷ trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ có từ 5 đến 7 uỷ viên (do cấp uỷ quyết định), trong đó chủ nhiệm là thường vụ cấp uỷ, từ 1 đến 2 phó chủ nhiệm (phó chủ nhiệm thường trực là cấp uỷ viên) là một số uỷ viên chuyên trách; 2 uỷ viên kiêm chức gồm trưởng ban hoặc phó trưởng ban tổ chức là cấp uỷ viên và chánh thanh tra cùng cấp.
+ Uỷ ban kiểm tra quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ có từ 7 đến 9 uỷ viên (do cấp uỷ quyết định); trong đó chủ nhiệm là thường vụ cấp uỷ, từ đến 2 phó chủ nhiệm (phó chủ nhiệm thường trực là cấp uỷ viên) là một số uỷ viên chuyên trách; 2 uỷ viên kiêm chức gồm trưởng ban hoặc phó trưởng ban tổ chức là cấp uỷ viên và chánh thanh tra cùng cấp.
– Uỷ ban kiểm tra của đảng uỷ cơ sở:
+ Số lượng từ 3 đến 5 uỷ viên (do đảng uỷ cơ sở quyết định), trong đó đồng chí phó bí thư hoặc uỷ viên ban thường vụ, thường trực cấp uỷ làm chủ nhiệm. Trường hợp không có ban thường vụ cấp uỷ thì đồng chí phó bí thư làm chủ nhiệm; phó chủ nhiệm là cấp uỷ viên hoặc đảng viên.
+ Các uỷ viên khác có thể là cấp uỷ viên hoặc đảng viên phụ trách công tác đoàn thể, bí thư chi bộ, thanh tra nhân dân, Đảng uỷ bộ phận và chi uỷ không lập uỷ ban kiểm tra; tập thể cấp uỷ thực hiện công tác kiểm tra và phân công 1 cấp uỷ viên phụ trách. Ngoài ra, có thể lựa chọn phân công một số đảng viên có điều kiện giúp đồng chí cấp uỷ viên phụ trách làm công tác kiểm tra.
– Uỷ ban kiểm tra của các cấp uỷ thuộc Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương và Ban Cán sự đảng Ngoài nước:
+ Uỷ ban Kiểm tra Đảng uỷ Quân sự Trung ương:
Số lượng từ 9 đến 11 uỷ viên (do Đảng uỷ Quân sự Trung ương quyết định), trong đó có 5 đến 6 uỷ viên chuyên trách là từ 4 đến 5 uỷ viên kiêm chức; có 2 đến 3 uỷ viên là cấp uỷ viên cùng cấp.
Các uỷ viên chuyên trách gồm: Phó Chủ nhiệm thường trực và 4 đến 5 uỷ viên. Phó Chủ nhiệm thường trực có nhóm chức vụ, trần quân hàm bằng Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; các uỷ viên chuyên trách có nhóm chức vụ, trần quân hàm bằng Cục trưởng Cục Tổ chức, Cục Cán bộ thuộc Tổng cục Chính trị.
Uỷ viên kiêm chức gồm: Chủ nhiệm Uỷ ban là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Cục trưởng Cục Tổ chức; Cục trưởng Cục Cán bộ; Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng…
+ Uỷ ban Kiểm tra Đảng uỷ Công an Trung ương:
Số lượng từ 9 đến 11 uỷ viên (do Đảng uỷ Công an Trung ương quyết định), trong đó có từ 6 đến 8 uỷ viên chuyên trách và 3 uỷ viên kiêm chức; có 2 đến 3 uỷ viên là cấp uỷ viên cùng cấp.
Các uỷ viên chuyên trách gồm: 4 phó chủ nhiệm (Phó Chủ nhiệm thường trực Uỷ ban là Đảng uỷ viên Đảng uỷ Công an Trung ương, Phó Tổng cục trưởng; 3 phó chủ nhiệm chuyên trách là cục trưởng) và 2 đến 4 uỷ viên chuyên trách là phó cục trưởng (chức vụ như cục trưởng, phó cục trưởng trong Tổng cục Xây dựng lực lượng).
Các uỷ viên kiêm chức gồm: Chủ nhiệm Uỷ ban là đồng chí Phó Bí thư hoặc Uỷ viên Thường vụ Đảng uỷ Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an; Chánh Thanh tra Bộ Công an; Vụ trưởng vụ Tổ chức – cán bộ.
+ Uỷ ban Kiểm tra Ban Cán sự đảng ngoài nước:
Số lượng từ 5 đến 7 uỷ viên (do Ban Cán sự đảng ngoài nước quyết định), trong đó có 3 đến 4 uỷ viên chuyên trách và 2 đến 3 uỷ viên kiêm chức; có 1 uỷ viên là Uỷ viên Ban Cán sự đảng ngoài nước.
Các uỷ viên chuyên trách gồm: Chủ nhiệm Uỷ ban là Uỷ viên Ban Cán sự đảng và từ 2 đến 3 uỷ viên thường trực.
Các uỷ viên kiêm chức gồm một số đảng viên là cán bộ cấp vụ, đơn vị thuộc Ban Cán sự đảng ngoài nước.
Việc bầu uỷ ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam. Đảng bộ Công an nhân dân Việt Nam, Ban Cán sự đảng ngoài nước do Uỷ ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn sau khi thống nhất với Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương, Ban Cán sự đảng ngoài nước và Ban Tổ chức Trung ương.
3- Trường hợp có những yêu cầu khác với hướng dẫn nêu tại các mục 1- và 2- Điều 31, cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ phải báo cáo với cấp uỷ cấp trên trực tiếp, khi được sự đồng y mới tổ chức thực hiện.
2. Các thành viên uỷ ban kiểm tra và chủ nhiệm, phó chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp dưới phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y, nếu điều động chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra sang công tác khác phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý
Ngoài việc thay đổi chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra như quy định của Điều lệ Đảng, khi thay đổi phó chủ nhiệm hoặc uỷ viên uỷ ban kiểm tra (kể cả việc chuẩn bị người thay thế) thì cấp ủy hoặc ban thường vụ cấp uỷ cấp dưới phải trao đổi với uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp trước khi thực hiện.
3. Uỷ ban kiểm tra làm việc theo chế độ tập thể, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ cùng cấp và sự chỉ đạo, kiểm tra của uỷ ban kiểm tra cấp trên
– Uỷ ban kiểm tra thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số, Uỷ ban có thể uỷ quyền cho tập thể thường trực uỷ ban (nơi có từ 2 phó chủ nhiệm trở lên) quyết định một số vấn đề cụ thể (theo quy chế làm việc của uỷ ban và quy định chế độ làm việc của cơ quan uỷ ban kiểm tra). Thường trực uỷ ban gồm chủ nhiệm và các phó chủ nhiệm. Đối với Đảng bộ Quân đội, thường trực uỷ ban gồm chủ nhiệm, các phó chủ nhiệm và các uỷ viên chuyên trách.
– Uỷ ban kiểm tra làm việc dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ cùng cấp; chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Điều lệ Đảng về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của uỷ ban kiểm tra; định kỳ báo cáo với cấp uỷ chương trình, kế hoạch, kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của mình và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của cấp uỷ về công tác kiểm tra, giám sát, về quy chế làm việc của uỷ ban kiểm tra và các nhiệm vụ do cấp uỷ giao; chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp uỷ về tất cả các hoạt động của mình.
Uỷ ban kiểm tra làm việc dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra cấp trên:
+ Chấp hành sự chỉ đạo, hướng dẫn của uỷ ban kiểm tra cấp trên về phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát và việc thi hành kỷ luật trong Đảng.
+ Chịu sự đôn đốc, kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra cấp trên về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra theo quy định của Điều lệ Đảng, của Trung ương Đảng và hướng dẫn của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
+ Khi cần thiết, uỷ ban kiểm tra cấp trên có thể trực tiếp chỉ đạo giải quyết một số vấn đề cụ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng của uỷ ban kiểm tra cấp dưới.
+ Phối hợp với ban tổ chức của cấp uỷ cùng cấp và cấp uỷ cấp dưới chuẩn bị nhân sự uỷ ban kiểm tra theo sự hướng dẫn của uỷ ban kiểm tra cấp trên; giúp cấp uỷ xây dựng, ban hành quy chế làm việc của uỷ ban kiểm tra; kiện toàn cơ quan uỷ ban kiểm tra về tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ…
– Trường hợp giữa uỷ ban kiểm tra và ban thường vụ cấp uỷ có ý kiến khác nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra theo quy định của Điều lệ Đảng, thì uỷ ban kiểm tra phải chấp hành kết luận, quyết định của cấp uỷ, đồng thời báo cáo uỷ ban kiểm tra cấp trên. Trường hợp uỷ ban kiểm tra cấp trên có ý kiến khác với cấp uỷ cấp dưới thì uỷ ban kiểm tra cấp trên báo cáo với cấp uỷ cấp mình xem xét, quyết định.
Điều 32. Uỷ ban kiểm tra các cấp có nhiệm vụ:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên
– Nội dung kiểm tra:
Kiểm tra những dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên; tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên (Quy định ở các Điều l, Điều 2, Điều 12, Điều lệ Đảng). Uỷ ban kiểm tra căn cứ tình hình, nhiệm vụ, yêu cầu công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị: tính chất, dấu hiệu vi phạm của đảng viên để tập trung kiểm tra.
Đối tượng kiểm tra:
Uỷ ban kiểm tra các cấp, kể cả uỷ ban kiểm tra của đảng uỷ cơ sở chỉ kiểm tra những đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, trước hết là cấp uỷ viên cùng cấp, đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý; khi cần thiết thì kiểm tra đảng viên do tổ chức đảng cấp dưới quản lý. Trường hợp đảng viên có dấu hiệu vi phạm là cấp uỷ viên cấp mình, đồng thời là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý thì uỷ ban kiểm tra cấp dưới báo cáo để uỷ ban kiểm tra cấp trên chủ trì và phối hợp tiến hành kiểm tra. Đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp mình quản lý, trước khi được bổ nhiệm phải có ý kiến của các ban có liên quan của cấp uỷ cấp trên (theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Chính trị và cấp uỷ các cấp) thì đề nghị uỷ ban kiểm tra cấp trên chỉ đạo và phối hợp tiến hành.
– Cách tiến hành:
+ Chủ động nắm tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm, xác định nội dung, đối tượng kiểm tra.
Để phát hiện tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm, uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra phải theo dõi nắm tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị, hoạt động và sinh hoạt của tổ chức đảng và đảng viên; báo cáo hoặc giao ban theo định kỳ với các địa phương, đơn vị; bình xét hoặc phân tích chất lượng đảng viên; qua các cuộc kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát của các cơ quan nhà nước, đoàn thể đối với các tổ chức đảng và đảng viên; qua đơn thư tố cáo, ý kiến phản ảnh của đảng viên, quần chúng và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Uỷ ban kiểm tra phân tích, lựa chọn để quyết định nội dung; đối tượng kiểm tra; chỉ đạo lập kế hoạch, xác định rõ yêu cầu, phương pháp, thời gian, lực lượng kiểm tra; ra quyết định hoặc thông báo kiểm tra.
+ Thông báo kế hoạch kiểm tra bằng văn bản cho đảng viên được kiểm tra và cho cấp uỷ quản lý đảng viên đó biết để phục vụ cho việc kiểm tra (trước khi thông báo quyết định kiểm tra, phải gặp trực tiếp trao đổi với đảng viên được kiểm tra và cấp uỷ quản lý đảng viên đó).
+ Đảng viên được kiểm tra giải trình các nội dung kiểm tra bằng văn bản, gửi cho uỷ ban kiểm tra qua tổ (hoặc đoàn) kiểm tra; sau đó trình bày trước chi bộ để chi bộ góp ý kiến, xem xét kết luận. Nhưng tuỳ trường hợp cụ thể và nội dung kiểm tra, uỷ ban kiểm tra (cấp kiểm tra) yêu cầu đảng viên đó trình bày ở cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn,… mà đảng viên đó là thành viên, không nhất thiết phải trình bày ở chi bộ. Các cuộc họp để đảng viên được kiểm tra trình bày đều có đại diện cấp kiểm tra tham dự.
– Các tổ chức đảng (chi bộ, cấp uỷ…) phải có kết luận bằng văn bản về những nội dung kiểm tra đối với đảng viên được kiểm tra (ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm nếu có và nguyên nhân); nếu thấy có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì biểu quyết đề nghị hình thức kỷ luật. Trường hợp đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì uỷ ban kiểm tra (cấp kiểm tra) xem xét, quyết định hoặc đề nghị cấp uỷ xem xét, quyết định thi hành kỷ luật theo thẩm quyền. Nếu đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý bằng pháp luật thì chuyển cơ quan pháp luật xem xét, xử lý, nhưng uỷ ban kiểm tra vẫn phải chủ động xem xét, kết luận về kỷ luật đảng đối với những nội dung vi phạm đã rõ. Khi có kết quả xử lý của cơ quan pháp luật có thẩm quyền thì xem xét lại kỷ luật đảng cho đúng mức.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng
1- Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị; Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng
– Nội dung kiểm tra:
Kiểm tra dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; nghị quyết, chỉ thị, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, trước hết là những dấu hiệu vi phạm về nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; về đoàn kết nội bộ, về giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; về chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước.
– Đối tượng kiểm tra:
Kiểm tra các tổ chức đảng cấp dưới, trước hết là các tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp; khi cần, mới kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp. Khi kiểm tra các tổ chức đảng, có thể kết hợp kiểm tra một số đảng viên là cán bộ chủ chốt của tổ chức đảng đó.
– Cách tiến hành:
+ Việc nắm tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm, phân tích, lựa chọn để quyết định nội dung, đối tượng kiểm tra; thông báo kế hoạch kiểm tra tiến hành như kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm theo hướng dẫn ở trên. Trong kế hoạch kiểm tra, cần ghi cụ thể cả những nội dung kết hợp kiểm tra đối với một số đảng viên của tổ chức đảng đó.
+ Có thể tổ chức lấy ý kiến bằng thư góp ý về nội dung kiểm tra đến một số đối tượng nhất định. Ví dụ: kiểm tra một ban thường vụ cấp uỷ có thể lấy ý kiến của cấp uỷ viên và cán bộ do cấp uỷ cùng cấp quản lý, của uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ cấp dưới trực tiếp.
+ Tổ chức hội nghị để tổ chức đảng được kiểm tra trình bày về nội dung kiểm tra. Hội nghị thảo luận làm rõ và kết luận về các nội dung đó bằng văn bản.
+ Qua kiểm tra, uỷ ban kiểm tra kết luận về những nội dung kiểm tra (đúng, sai, khuyết điểm hoặc vi phạm nếu có và nguyên nhân) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra; chỉ rõ những vấn đề cần khắc phục, xem xét, giải quyết. Nếu đối tượng kiểm tra có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì căn cứ đối tượng (tổ chức hoặc cá nhân) và mức độ, tính chất vi phạm mà uỷ ban kiểm tra xem xét, quyết định hoặc đề nghị cấp uỷ quyết định kỷ luật theo thẩm quyền.
– Lưu ý: Khi kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, nếu cần có thể kiểm tra các tổ chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp của tổ chức đảng đó và những đảng viên có liên quan.
2- Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
– Nội dung kiểm tra:
Kiểm tra việc xây dựng phương hướng nhiệm vụ kiểm tra, xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra theo Điều 30 và Điều 32, Điều lệ Đảng; việc lãnh đạo và chỉ đạo các tổ chức đảng trong đảng bộ thực hiện công tác kiểm tra, bao gồm cả việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức hoạt động của uỷ ban kiểm tra; kết quả kiểm tra của cấp uỷ, tổ chức đảng.
– Đối tượng kiểm tra:
Kiểm tra các tổ chức đảng cấp dưới, trước hết là cấp uỷ cấp dưới trực tiếp chưa làm tốt hoặc có khó khăn trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
– Cách tiến hành:
Theo quy trình do Uỷ ban Kiểm tra Trung ương ban hành.
3. Kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng
– Nội dung kiểm tra:
Kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng theo mốc thời gian nhất định. Tập trung kiểm tra việc thực hiện phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên. Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng, những vụ khiếu nại đã giải quyết, đang giải quyết hoặc những vụ vì lý do nào đó mà chưa giải quyết. Xem xét các vụ kỷ luật đã được xử lý nhưng có dấu hiệu xử lý không đúng mức, các vụ vi phạm đến mức phải xử lý nhưng không xử lý. Kiểm tra việc chấp hành các quyết định, chỉ thị, thông báo của tổ chức đảng cấp trên có liên quan đến việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng.
– Đối tượng kiểm tra:
Kiểm tra các tổ chức đảng cấp dưới có thẩm quyền thi hành kỷ luật, trước hết là cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp dưới trực tiếp, nhất là những nơi có nhiều tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật nhưng không xử lý hoặc xử lý không đúng mức; những nơi có nhiều thư khiếu nại về kỷ luật đảng.
– Cách tiến hành:
Theo quy trình do Uỷ ban Kiểm tra Trung ương ban hành.
4- Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng
– Phải kết luận về ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân của tổ chức đảng được kiểm tra trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo Điều 30, Điều lệ Đảng hoặc trong việc thực hiện phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật trong Đảng. Chỉ rõ những yêu cầu, nội dung cụ thể mà tổ chức đảng cần tập trung kiểm tra trong thời gian tới; những vấn đề cần kịp thời khắc phục, sửa chữa trong việc thi hành kỷ luật đảng; đồng thời nêu rõ những biện pháp giúp đỡ tổ chức đảng khắc phục khó khăn, sửa chữa khuyết điểm, nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm tra và việc thi hành kỷ luật trong Đảng.
– Khi kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng:
+ Nếu có trường hợp vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật nhưng tổ chức đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử lý không đúng mức thì uỷ ban kiểm tra (cấp kiểm tra) yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới xử lý kỷ luật hoặc thay đổi, xoá bỏ hình thức kỷ luật đã quyết định trong một thời gian được xác định, hoặc căn cứ thẩm quyền mà quyết định, hoặc đề nghị cấp uỷ quyết định hình thức kỷ luật cho phù hợp.
+ Nếu phát hiện những trường hợp liên quan đến các vụ kỷ luật do cấp uỷ cấp mình hoặc do tổ chức đảng cấp trên quyết định mà có vấn đề cần xem xét lai thì đề nghị với tổ chức đảng đã quyết định kỷ luật đó xem xét, giải quyết.
+ Cần kết hợp với việc giải quyết khiếu nại kỷ luật của đảng viên và tổ chức đảng ở một đảng bộ trong một thời gian nhất định để có thêm căn cứ nhận xét, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân trong việc thực hiện phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật của tổ chức đảng được kiểm tra.
3. Giám sát cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ diện cấp uỷ cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương
– Đối tượng giám sát:
+ Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cấp dưới, trước hết là cấp dưới trực tiếp.
+ Các ban của cấp uỷ cấp mình, các ban cán sự đảng, đảng đoàn thuộc cấp uỷ cấp mình quản lý.
+ Cấp uỷ viên cùng cấp, kể cả bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban thường vụ; đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý.
– Nội dung giám sát:
Giám sát đối với tổ chức đảng:
+ Giám sát tổ chức đảng cấp dưới trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của cấp uỷ cấp trên và của cấp uỷ cấp mình; việc thực hiện nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; thực hiện quy chế làm việc; thực hiện chương trình, kế hoạch công tác toàn khoá, hằng năm của cấp uỷ, tổ chức đảng trên các lĩnh vực và công tác cán bộ.
+ Việc thực hiện quy chế làm việc của cấp uỷ cấp mình.
Giám sát đối với đảng viên:
+ Việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Việc thực hiện tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; việc giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
+ Thực hiện những điều cán bộ, công chức và đảng viên không được làm.
+ Thực hiện chế độ kê khai và công khai tài sản của cán bộ, đảng viên theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
+ Việc chấp hành quy chế làm việc của cấp uỷ (đối với cấp uỷ viên cùng cấp).
– Cách tiến hành giám sát:
+ Thành viên uỷ ban kiểm tra dự các cuộc họp của cấp uỷ cùng cấp.
+ Thành viên uỷ ban và cán bộ, chuyên viên theo dõi địa bàn, lĩnh vực dự các cuộc họp, hội nghị thường kỳ, đột xuất của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cấp dưới; các hội nghị của tổ chức đảng cấp dưới.
+ Trực tiếp, thường xuyên theo dõi địa bàn, lĩnh vực, nắm vững tình hình phục vụ cho việc phát hiện dấu hiệu vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới.
+ Tham gia các đoàn công tác của cấp uỷ cấp mình.
+ Thông qua báo cáo, thông báo kết quả các cuộc kiểm tra của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp; thông qua báo cáo kết quả tự phê bình của tổ chức đảng cấp dưới gửi uỷ ban kiểm tra cấp trên.
+ Tổ chức lấy ý kiến về tổ chức đảng và đảng viên bằng hình thức thích hợp.
+ Trao đổi, nắm tình hình từ các tổ chức đảng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, các đoàn thể chính trị – xã hội; thông qua phản ảnh của quần chúng, các phương tiện thông tin đại chúng và đơn thư tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng để nắm tình hình về tổ chức đảng và đảng viên.
+ Thông qua các văn bản, báo cáo của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới gửi uỷ ban kiểm tra cấp trên.
– Thẩm quyền và trách nhiệm:
+ Thành viên uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra được yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên giải trình, cung cấp văn bản, tài liệu, báo cáo về các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm giám sát được giao có trách nhiệm bảo mật văn bản, tài liệu được cung cấp và chịu trách nhiệm về việc giám sát theo thẩm quyền trước uỷ ban kiểm tra cấp mình.
+ Qua giám sát, thành viên uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra phải kịp thời báo cáo uỷ ban kiểm tra để uỷ ban kiểm tra kiến nghị cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới kịp thời phát huy ưu điểm, nhắc nhở, uốn nắn, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm.
Nếu phát hiện cấp uỷ cấp dưới ban hành các quyết định không đúng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì uỷ ban kiểm tra yêu cầu cấp uỷ cấp dưới sửa chữa, nếu không sửa chữa thì báo cáo cấp uỷ cấp mình xem xét trách nhiệm của cấp uỷ cấp dưới và những đảng viên có liên quan.
Nếu phát hiện tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì báo cáo uỷ ban kiểm tra để kiểm tra.
4. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp uỷ thi hành kỷ luật
Thông qua thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo, sinh hoạt nội bộ, phân tích, bình xét chất lượng đảng viên hoặc kết luận của cơ quan pháp luật, qua xem xét, đề nghị về kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới,… nếu phát hiện đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì uỷ ban kiểm tra quyết định hoặc xem xét, chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp uỷ quyết định thi hành kỷ luật theo thẩm quyền. Nội dung thực hiện cụ thể được hướng dẫn ở phần thứ hai của văn bản này.
5. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng
1- Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên
Tố cáo trong Đảng là việc công dân, đảng viên báo cho tổ chức đảng hoặc cán bộ, đảng viên có trách nhiệm biết về hành vi của tổ chức đảng hoặc đảng viên mà người tố cáo cho là sai trái. Vi phạm Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trường hợp cơ quan, tổ chức cung cấp các thông tin, báo cáo cho tổ chức đảng, đảng viên có trách nhiệm về hành vi vi phạm của tổ chức hoặc đảng viên thì không phải là tố cáo.
– Yêu cầu, nguyên tắc trong việc giải quyết tố cáo:
+ Tổ chức đảng có thẩm quyền giải quyết tố cáo bao gồm cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các cấp, có nhiệm vụ giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của cấp uỷ cấp mình.
Khi nhận được tố cáo phải phân loại (theo nội dung, đối tượng,…), phân công giải quyết và giải quyết các trường hợp thuộc phạm vi trách nhiệm của mình hoặc phối hợp với các tổ chức đảng có thẩm quyền để giải quyết. Chậm nhất là 90 ngày đối với các tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương trở xuống; 180 ngày đối với cấp Trung ương, kể từ ngày nhận được tố cáo (gửi, phản ánh trực tiếp hoặc theo dấu bưu điện chuyển đến) phải xem xét, giải quyết. Trường hợp hết thời hạn mà chưa giải quyết xong thì phải thông báo cho người tố cáo biết.
Tổ chức đảng và đảng viên nhận được thư tố cáo phải bảo đảm bí mật cho người tố cáo. Không để người bị tố cáo chủ trì giải quyết tố cáo đối với mình. Không để người tố cáo hoặc người có liên quan đến tố cáo giải quyết tố cáo. Uỷ ban kiểm tra hoặc cấp giải quyết tố cáo phải xử lý hoặc đề nghị cấp uỷ xử lý hay chỉ đạo xử lý nghiêm minh bằng kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính hoặc pháp luật những trường hợp trù dập, trả thù nguời tố cáo; cản trở, dìm bỏ, không xem xét, giải quyết tố cáo; bao che cho những việc làm sai trái của đối tượng bị tố cáo; để lộ nội dung tố cáo, tên người tố cáo cho đối tượng bị tố cáo, người không có trách nhiệm biết; lợi dụng tố cáo để xuyên tạc sự thật, vu cáo, đả kích, gây dư luận xấu đối với người khác.
Trường hợp tố cáo có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành thì cấp uỷ chỉ đạo uỷ ban kiểm tra phối hợp với các tổ chức đảng có liên quan giải quyết (theo quy định phối hợp của Trung ương và của các cấp uỷ trực thuộc Trung ương).
+ Người tố cáo phải trình bày trung thực sự việc, ghi rõ họ, tên, địa chỉ, chịu trách nhiệm về nội dung tố cáo và bằng chứng mà mình đưa ra. Nếu phản ảnh trực tiếp thì phải được ghi lại thành văn bản, người tố cáo phải ký tên chịu trách nhiệm vào văn bản đó. Không được gửi hoặc phổ biến nội dung tố cáo, tên người bị tố cáo, nội dung thông báo giải quyết tố cáo của tổ chức đảng có thẩm quyền cho những tổ chức hoặc cá nhân không có trách nhiệm trong việc giải quyết tố cáo.
+ Tổ chức đảng và đảng viên bị tố cáo phải nghiêm túc tự kiểm tra mình, trình bày rõ ràng, trung thực, đầy đủ, kịp thời về những vấn đề bị tố cáo khi các tổ chức đảng có thẩm quyền, yêu cầu; tự giác nhận rõ sai lầm, khuyết điểm (nếu có) và có quyền đưa ra bằng chứng xác thực để chứng minh nội dung tố cáo không đúng; không được truy tìm, trấn áp, trù dập, trả thù người phê bình, tố cáo dưới bất kỳ hình thức nào.
+ Tổ chức đảng quản lý đối tượng bị tố cáo phải bảo đảm quyền dân chủ của đảng viên và quần chúng trong việc giám sát, tố cáo, phản ảnh về những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Phối hợp và thực hiện đầy đủ yêu cầu cuả tổ chức đảng có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Trong thời gian tổ chức đảng có thẩm quyền đang giải quyết, chưa kết luận thì phải bảo đảm các quyền của đảng viên, của tổ chức đảng bị tố cáo; giáo dục đảng viên, tổ chức đảng thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu của tổ chức đảng giải quyết tố cáo.
+ Những người lợi dụng việc tố cáo đế vu cáo, đả kích cá nhân, chia rẽ bè phái, gây rối nội bộ cũng phải được xem xét, xử lý kỷ luật đảng hoặc đề nghị tố chức có thẩm quyền xử lý theo Luật khiếu nại, tố cáo.
Nội dung tố cáo phải giải quyết:
Những nội dung tố cáo có liên quan đến tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; liên quan đến việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; đoàn kết nội bộ, phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Những nội dung tố cáo mà uỷ ban kiểm tra chưa đủ điều kiện xem xét thì kiến nghị cấp uỷ hoặc phối hợp hay yêu cầu tổ chức đảng của cơ quan nhà nước, cơ quan pháp luật có thẩm quyền giải quyết.
Không xem xét, giải quyết những tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ và những tố cáo có tên đã được cấp có thẩm quyền do Điều lệ Đảng quy định xem xét, kết luận, nay tố cáo lại, nhưng không có thêm tài liệu, chứng cứ mới; những tố cáo có tên nhưng nội dung không cụ thể, không có căn cứ để thẩm tra, xác minh; những tố cáo sao chụp chữ ký mà không ký trực tiếp.
– Đối tượng bị tố cáo phải giải quyết:
+ Với đảng viên: tập trung giải quyết các tố cáo cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý: người bị tố cáo có liên quan đến công tác nhân sự của cấp uỷ mình. Đối tượng bị tố cáo là cấp uỷ viên cấp mình, đồng thời là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý thì do uỷ ban kiểm tra cấp trên chủ trì giải quyết, có sự phối hợp của uỷ ban kiểm tra cùng cấp. Đối tượng bị tố cáo là cán bộ do cấp uỷ cấp mình quản lý nhưng khi được bổ nhiệm phải có ý kiến của các ban có liên quan của cấp uỷ cấp trên thì phải báo cáo để có sự chỉ đạo, hoặc phối hợp của uỷ ban kiểm tra cấp trên.
+ Với tổ chức Đảng: tập trung giải quyết tố cáo các tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp. Nếu tố cáo tổ chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp thì tổ chức đảng cấp trên chuyển cho tổ chức đảng cấp dưới có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
Cách tiến hành:
+ Uỷ ban kiểm tra chỉ đạo việc nghiên cứu, phân loại tố cáo, nắm tình hình để có kế hoạch giải quyết.
+ Đối tượng bị tố cáo phải giải trình về các nội dung tố cáo bằng văn bản, gửi cho uỷ ban kiểm tra; trình bày trước chi bộ để chi bộ xem xét, kết luận. Đảng viên bị tố cáo là cấp uỷ viên cùng cấp hoặc tham gia nhiều cấp uỷ và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý, thì tuỳ nội dung tố cáo cụ thể có thể trình bày ở các tổ chức đảng (cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn,…) hoặc chỉ trình bày ở một tổ chức đảng là do cấp kiểm tra quyết định, để các tổ chức đảng đó xem xét, kết luận. Tổ chức đảng bị tố cáo phân công người thay mặt tập thể chuẩn bị và trình bày giải trình về nội dung bị tố cáo trước hội nghị của tổ chức đảng cấp mình, có đại diện của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra (cấp giải quyết) tham dự.
+ Sau khi nghe đại diện tổ chức đảng hoặc đảng viên bị tố cáo trình bày, đại diện uỷ ban kiểm tra (cấp giải quyết) gợi ý thêm những vấn đề cần làm rõ. Hội nghị các tổ chức đảng nói trên (chi bộ, cấp uỷ,…) thảo luận, đóng góp ý kiến, xem xét, kết luận những nội dung có thể kết luận; nếu thấy có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì biểu quyết đề nghị hình thức kỷ luật.
+ Uỷ ban kiểm tra (cấp giải quyết) nếu thấy nội dung kết luận của các tổ chức đảng nêu trên (chi bộ, cấp uỷ,…) là đúng thì có kết luận cuối cùng về nội dung tố cáo đó. Nếu thấy có vấn đề chưa rõ, chưa nhất trí hoặc mới phát sinh thì tiếp tục thẩm tra, xác minh để có đủ căn cứ kết luận. Nếu đối tượng bị tố cáo vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì quyết định kỷ luật hay đề nghị cấp uỷ xem xét, quyết định hoặc chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới quyết định thi hành kỷ luật theo thẩm quyền. Trường hợp đảng viên bị tố cáo vi phạm đến mức phải xử lý bằng pháp luật thì tiến hành như đã nêu ở khoản 1 Điều 32.
+ Quá trình giải quyết tố cáo, uỷ ban kiểm tra có thể trưng cầu giám định chuyên môn, kỹ thuật về những nội dung có liên quan và phối hợp, kết hợp với các cơ quan chức năng giải quyết.
+ Uỷ ban kiểm tra (cấp giải quyết) thông báo kết quả kiểm tra cho đảng viên và tổ chức đảng quản lý đảng viên bị tố cáo, tổ chức đảng bị tố cáo để chấp hành; đồng thời gửi cho tổ chức đảng cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng bị tố cáo biết. Bằng hình thức thích hợp, báo cho người tố cáo biết những nội dung cần thiết về kết quả giải quyết tố cáo.
2- Giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng
– Một số yêu cầu, nguyên tắc trong việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
+ Đối với tổ chức đảng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp có nhiệm vụ giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng.
Việc giải quyết khiếu nại của tổ chức đảng và đảng viên phải tiến hành tuần tự từ uỷ ban kiểm tra hoặc cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng đã quyết định thi hành kỷ luật.
Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra khi nhận được khiếu nại kỷ luật phải báo cho đối tượng khiếu nại biết. Chậm nhất là 90 ngày đối với cấp tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương trở xuống; 180 ngày đối với cấp Trung ương, kể từ ngày nhận được khiếu nại (gửi trực tiếp hoặc theo dấu bưu điện chuyển đến) phải xem xét, giải quyết, trả lời cho đối tượng khiếu nại. Nghiêm cấm các hành vi cản trở, dìm bỏ, không xem xét, giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng. Trường hợp hết thời hạn mà chưa giải quyết xong thì phải thông báo cho đối tượng khiếu nại biết.
Uỷ ban kiểm tra có trách nhiệm xem xét, đề xuất ý kiến giải quyết và chuẩn bị hồ sơ các vụ khiếu nại kỷ luật thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ cấp mình.
+ Đối tượng bị thi hành kỷ luật không đồng ý với quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật thì được khiếu nại lên tổ chức đảng cấp trên, lần lượt cho đến Ban Chấp hành Trung ương. Thời hạn khiếu nại trong vòng một tháng, tính từ ngày tổ chức đảng và đảng viên vi phạm được tổ chức đảng có thẩm quyền công bố và giao quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật (căn cứ biên bản công bố quyết định kỷ luật, hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật) đến ngày tổ chức đảng và đảng viên bị thi hành kỷ luật gửi thư khiếu nại (gửi trực tiếp hoặc theo dấu bưu điện ở nơi chuyển đi).
Không khiếu nại vượt cấp khi tổ chứa đảng có thẩm quyền chưa giải quyết xong. Không gửi thư khiếu nại đến nhiều cấp cùng một lúc, đến các tổ chức và cá nhân không có thẩm quyền giải quyết. Không khiếu nại hộ đảng viên bị thi hành kỷ luật.
Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật của tổ chức đảng có thẩm quyền đã công bố.
+ Sau khi công bố quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật mà đối tượng bị kỷ luật có khiếu nại trực tiếp đến cấp mình, thì chủ động xem xét lại, nếu thấy quyết định của cấp mình không đúng mức thì thay đổi quyết định đó cho phù hợp.
Khi tổ chức đảng cấp trên tiến hành giải quyết khiếu nại thì phải xem xét nghiêm túc quyết định của mình và phải chấp hành nghiêm hành quyết định giải quyết khiếu nại của tổ chức đảng cấp trên.
+ Tổ chức đảng trực tiếp quản lý đối tượng khiếu nại phối hợp với tổ chức đảng có thẩm quyền để giải quyết khiếu nại; giáo dục đối tượng khiếu nại thực hiện đầy đủ theo yêu cầu của tổ chức đảng giải quyết khiếu nại; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại của tổ chức đảng cấp trên.
– Phạm vi giải quyết khiếu nại:
+ Chỉ giải quyết những nội dung quyết định kỷ luật đảng mà đối tượng bị kỷ luật có khiếu nại.
+ Tổ chức đảng cấp trên chỉ giải quyết khiếu nại kỷ luật do tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp đã quyết định kỷ luật hoặc đã có quyết định giải quyết khiếu nại.
+ Uỷ ban kiểm tra phải giải quyết hoặc giúp cấp uỷ giải quyết thư khiếu nại về kỷ luật đảng thuộc phạm vi trách nhiệm của cấp mình, trước hết phải giải quyết những trường hợp bị xử lý khai trừ (đối với đảng viên), giải tán (đối với tổ chức đảng) hoặc những trường hợp có liên quan đến nhân sự cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể.
+ Trường hợp người bị thi hành kỷ luật có khiếu nại chưa được giải quyết mà đã qua đời thì tổ chức đảng vẫn phải xem xét, giải quyết; nếu thân nhân (cha, mẹ, vợ, hoặc chồng, con) có đề nghị cho biết kết quả thì thông báo tóm tắt kết quả giải quyết khiếu nại cho tổ chức đảng nơi cư trú và thân nhân của người đó biết.
+ Không giải quyết những trường hợp khiếu nại sau đây: quá thời hạn một tháng theo quy định của Điều lệ Đảng; đã hoặc đang được cấp trên có thẩm quyền giải quyết; đã được cấp có thẩm quyền cao nhất xem xét, kết luận, nay khiếu nại tiếp, nhưng người khiếu nại không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới để làm rõ sự việc; bị toà án quyết định hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên chưa được toà án có thẩm quyền quyết định huỷ bỏ bản án; cá nhân, tập thể và tổ chức đảng khiếu nại hộ cho tổ chức đảng, đảng viên bị thi hành kỷ luật; khiếu nại khi chưa có quyết định kỷ luật của tổ chức đảng có thẩm quyền.
Thư khiếu nại về xử lý hành chính, về lịch sử chính trị, tính tuổi đảng, xoá tên trong danh sách đảng viên,… thì chuyển cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết và báo cho người khiếu nại biết.
– Cách tiến hành:
+ Khi nhận đơn khiếu nại, tổ chức đảng phải báo cho người khiếu nại biết và yêu cầu chờ giải quyết; trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết thì chuyển tổ chức đảng có thẩm quyền giải quyết.
Phải nghiên cứu kỹ hồ sơ kỷ luật và gặp đối tượng khiếu nại để nắm vững nội dung khiếu nại. Khi đang giải quyết khiếu nại nếu đối tượng tự nguyện có đơn xin rút thì thôi giải quyết. Tuyệt đối không được ép buộc đối tượng rút đơn khiếu nại.
Làm việc với các tổ chức đảng (đã đề nghị quyết định kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật) để trao đối về nội dung vi phạm, tình tiết, diễn biến của sự việc dẫn đến xử lý kỷ luật; làm rõ những điểm khác nhau giữa nội dung khiếu nại kỷ luật với quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có) trước đây; trao đổi về nội dung, mức độ, tính chất, tác hại và nguyên nhản của vi phạm; biểu quyết đề nghị hình thức kỷ luật.
Việc chuẩn y, thay đổi, xoá bỏ hình thức kỷ luật trước đây thuộc trách nhiệm của các tổ chức đảng có thẩm quyền. Qua làm việc, nếu có vấn đề chưa rõ thì phải tiếp tục thẩm tra, xác minh để kết luận.
+ Do nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng khác nhau, đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của mỗi tổ chức, mỗi lĩnh vực không giống nhau, nên khi giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, nhất là những vụ kỷ luật xảy ra đã lâu mà đơn khiếu nại vẫn còn thời hiệu giải quyết, phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, không máy móc, cứng nhắc nhưng cũng không được giản đơn, tuỳ tiện.
– Quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật.
+ Chỉ có đảng uỷ cơ sở, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên mới có thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật đối với đảng viên do tổ chức đảng cấp dưới đã quyết định. Chỉ có cấp uỷ, ban thường vụ cấp huyện, quận và tương đương trở lên mới có thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật đối với tổ chức đảng do cấp uỷ cấp dưới quyết định. Trường hợp phải thay đổi hình thức kỷ luật cao hơn, vượt quá thẩm quyền thì phải báo cáo tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định tại Điều 36, Điều lệ Đảng.
+ Ban thường vụ, uỷ ban kiểm tra của đảng uỷ cơ sở có trách nhiệm xem xét khiếu nại kỷ luật của đảng viên do chi bộ quyết định nhưng không có thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật mà phải đề nghị đảng uỷ cơ sở xem xét, quyết định.
6. Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp
– Chỉ có cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp và cơ quan tài chính cấp uỷ mới có quyền kiểm tra tài chính của Đảng.
– Quá trình kiểm tra, nếu có tố cáo phải thực hiện theo đúng quy định về giải quyết tố cáo. Các vi phạm pháp luật trong quản lý tài chính, tài sản của Đảng, ngoài việc phải xử lý bằng kỷ luật đảng, nếu vi phạm đến mức phải xem xét, xử lý bằng pháp luật thì chuyển cơ quan pháp luật xử lý.
1. Nội dung kiểm tra
– Đối với cấp uỷ cấp dưới:
+ Kiểm tra việc ban hành các chủ trương, quy định, quyết định về tài chính của cấp uỷ.
+ Kiểm tra việc chấp hành và chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới (cơ quan tài chính của cấp uỷ, các ban và cấp uỷ cấp dưới) chấp hành các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, chính sách, chế độ, nguyên tắc về tài chính của Đảng và Nhà nước; việc thực hiện các nguyên tắc thu chi, lập, phê duyệt dự toán, cấp phát, phê duyệt quyết toán, sử dụng tài chính, tài sản,… việc chấp hành các quy định của Luật kế toán, Luật ngân sách nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, tiêu cực…; việc chấp hành các quy định về chế độ kế toán, chứng từ; việc kiểm tra tài chính đối với tổ chức đảng trực thuộc; kiểm tra việc uỷ quyền cho cơ quan tài chính làm chủ sở hữu tài sản của Đảng.
– Đối với cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp:
Kiểm tra việc chấp hành các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, chế độ, chính sách về quản lý, sử dụng tài chính, tài sản của Đảng và Nhà nước trong quá trình hoạt động tài chính theo chức năng, nhiệm vụ được giao; việc chấp hành sự chỉ đạo, các chủ trương, quy định, quyết định của cấp uỷ cấp mình và cơ quan tài chính cấp uỷ cấp trên; việc tham mưu cho cấp uỷ quyết định các chủ trương, chính sách, chế độ thu chi, quản lý tài chính và tài sản của Đảng; giúp cấp uỷ lập dự toán ngân sách, quản lý thực hiện ngân sách, báo cáo phê duyệt thanh quyết toán tài chính; việc chấp hành các quy định của Luật kế toán, Luật ngân sách nhà nước,…; việc hướng dẫn và kiểm tra về nghiệp vụ công tác tài chính đối với cơ quan tài chính cấp uỷ cấp dưới; việc thực hiện chức trách được uỷ nhiệm chủ sở hữu tài sản của Đảng do cấp uỷ giao.
– Đối với các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp có thu của Đảng: ngoài sự kiểm tra của uỷ ban kiểm tra và cơ quan tài chính cấp uỷ, còn chịu sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng nhà nước theo quy định hiện hành.
– Đối với những khoản do ngân sách nhà nước trực tiếp chi như đầu tư xây dựng cơ bản, đề tài nghiên cứu khoa học,… uỷ ban kiểm tra và cơ quan tài chính đảng có trách nhiệm phối hợp với cơ quan chức năng nhà nước tổ chức kiểm tra.
– Nội dung kiểm tra thu, nộp đảng phí chủ yếu do đảng uỷ cơ sở tiến hành.
2. Đối tượng kiểm tra
Tập trung kiểm tra tài chính cấp uỷ cấp dưới trực tiếp và của cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp; khi cần thiết thì kiểm tra cấp dưới cách nhiều cấp.
Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới là kiểm tra ban thường vụ cấp uỷ, trước hết là thường trực cấp uỷ và đồng chí thường vụ được phân công phụ trách trực tiếp công tác tài chính đảng. Khi kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới có thể kiểm tra các cơ quan tài chính trực thuộc cấp uỷ đó để có cơ sở đánh giá, kết luận toàn diện.
Kiểm tra cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp là kiểm tra ban tài chính quản trị hoặc bộ phận ngân sách đảng thuộc văn phòng cấp uỷ. Khi kiểm tra cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp có thể kiểm tra cơ quan tài chính cấp II thuộc cấp uỷ cùng cấp để đánh giá đúng hoạt động tài chính của cơ quan tài chính của cấp uỷ.
3- Cách tiến hành
Theo quy trình do Uỷ ban Kiểm tra Trung ương ban hành.
Chú ý
+ Trước khi báo cáo uỷ ban kiểm tra (cấp kiểm tra), tổ (hoặc đoàn) kiểm tra phải trao đổi dự thảo kết luận kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, có biên bản ghi rõ những nội dung còn có ý kiến khác nhau. Khi báo cáo, tổ (đoàn) kiểm tra phải báo cáo đầy đủ cả những ý kiến chưa thống nhất để uỷ ban kiểm tra (cấp kiểm tra) xem xét, kết luận.
+ Khi kiểm tra, có thể kiểm tra toàn diện, có thể chỉ kiểm tra một số nội dung: thu chi ngân sách, sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, kiểm tra đảng phí.
7. Một số lưu ý trong việc thực hiện Điều 32, Điều lệ Đảng
– Tiến hành kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, kiểm tra tài chính đảng, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và việc thi hành kỷ luật trong Đảng, nhất thiết phải lập tổ (hoặc đoàn) kiểm tra.
– Các tổ (đoàn) kiểm tra cần tiến hành thẩm tra, xác minh, nghiên cứu tình hình cụ thể để hướng dẫn, động viên, thuyết phục đối tượng kiểm tra tự giác chuẩn bị văn bản giải trình trước hội nghị chi bộ (và các hội nghị khác). Sau hội nghị, cần trao đổi trực tiếp với đối tượng kiểm tra, với cấp uỷ quản lý đối tượng kiểm tra về những nội dung dự kiến kết luận. Tổ (đoàn) kiểm tra phải báo cáo các ý kiến khác nhau về kết luận kiểm tra, đồng thời đề xuất những vấn đề thuộc cơ chế, chính sách… (nếu có) để uỷ ban kiểm tra (cấp kiểm tra) xem xét, kết luận.
Tổ chức đảng và đảng viên trong đảng bộ phải chấp hành đầy đủ, kịp thời các kết luận, quyết định, thông báo theo thẩm quyền của cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra về công tác kiểm tra, về kỷ luật đảng. Sau cuộc kiểm tra, uỷ ban kiểm tra cần tiến hành đôn đốc, kiểm tra việc thi hành các kết luận, quyết định, thông báo nói trên (những việc cần phải làm, khắc phục, sửa chữa, những trường hợp vi phạm cần xem xét, xử lý,…) để bảo đảm việc chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng.
Cấp kiểm tra phải kết luận và xử lý hoặc giúp cấp uỷ xử lý kỷ luật theo thẩm quyền; khi cần thiết, có thể chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới xử lý theo đúng quyết định của cấp mình đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm (nếu có).
– Cần phân biệt phạm vi kiểm tra của uỷ ban kiểm tra chỉ là các đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm, hẹp hơn phạm vi kiểm tra của cấp uỷ, của tổ chức đảng khi kiểm tra chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; kiểm tra cả nơi chấp hành tốt, cả nơi có dấu hiệu vi phạm.
– Uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ địa phương có trách nhiệm chủ động, trực tiếp tiến hành các nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật đảng đối với đảng viên và tổ chức đảng quân sự, biên phòng địa phương và công an nhân dân địa phương theo quy định của Điều lệ Đảng. Khi tiến hành, có sự phối hợp với uỷ ban kiểm tra của đảng uỷ quân sự, đảng uỷ bộ đội biên phòng cấp trên hoặc của đảng uỷ công an nhân dân cấp trên, đều do uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ địa phương chủ trì và kết luận (theo quy chế phối hợp của các cấp uỷ đảng có thẩm quyền).
Điều 33. Uỷ ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung kiểm tra.
Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, khi uỷ ban kiểm tra yêu cầu, các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên phải thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu đó. Các tổ chức đảng và đảng viên nếu thấy có vấn đề cần tham gia ý kiến thì phản ảnh với uỷ ban kiểm tra, không được gây khó khăn, trở ngại cho việc kiểm tra, giám sát. Chỉ có cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cùng cấp và cấp uỷ cấp trên hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên mới có quyền kiểm tra lại kết luận, thông báo, quyết định của uỷ ban kiểm tra.
Khi các cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới gửi các văn bản, báo cáo cho tổ chức đảng cấp trên thì đồng gửi uỷ ban kiểm tra cấp trên.

Phần thứ hai
VIỆC THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG ĐẢNG
Cần tập trung vào những vi phạm về quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng; về chấp hành nguyên tắc tổ chức của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ; suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, phẩm chất và lối sống. Cụ thể:
– Lợi dụng dân chủ để tuyên truyền chống Đảng; cố ý nói, viết và làm trái Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước.
– Vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ; cơ hội, kèn cựa, địa vị, độc đoán, chuyên quyền, lợi dụng quyền dân chủ để kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ.
– Những hành vi tham nhũng, buôn lậu của cán bộ, đảng viên ở bất kỳ cấp nào, lĩnh vực nào.
– Quan liêu, thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý để địa phương, đơn vi mình trực tiếp phụ trách xảy ra lãng phí, tham nhũng, mất đoàn kết hoặc các tiêu cực khác, gây hậu quả nghiêm trọng. Bản thân gây thiệt hại về kinh tế phải bồi hoàn nhưng cố ý không bồi hoàn.
– Suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống: nghiện ma tuý, rượu, bia đến mức bê tha, tổ chức hoặc tham gia các hoạt động không lành mạnh, bất chính như bia ôm, karaoke ôm, cờ bạc ăn tiền, hành nghề đồng cất, thầy cúng, thầy bói, lập đền, miếu trái phép, tham gia tà đạo,…
Đảng viên ở bất kỳ cương vị nào, nếu vi phạm một trong những nội dung trên đều phải xử lý nghiêm minh. Đối với những vi phạm khác nếu đến mức phải xử lý kỷ luật cũng phải xem xét, thi hành kỷ luật kịp thời để hạn chế và phòng ngừa vi phạm.
Điều 35:
1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý công minh, chính xác, kịp thời
Khi thi hành kỷ luật phải căn cứ nội dung, mức độ, tính chất, tác hại và nguyên nhân vi phạm mà xem xét, quyết định hình thức kỷ luật cho phù hợp.
– Tất cả đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng, nếu vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật đều phải thi hành kỷ luật, không có ngoại lệ, không phân biệt chức vụ cao hay thấp, tuổi đảng nhiều hay ít,…
– Trong xử lý, phải kết hợp xem xét kết quả tự phê bình và phê bình với kết quả thẩm tra, xác minh của tổ chức đảng để bảo đảm kết luận khách quan, chính xác; không bỏ sót vi phạm. Khi xem xét, xử lý cần làm rõ nguyên nhân, phân biệt sai lầm, khuyết điểm do trình độ, năng lực hoặc động cơ vì lợi ích chung mà dẫn đến phạm sai lầm, khuyết điểm hay vì lợi ích cá nhân, cục bộ mà cố ý làm trái; vi phạm nhất thời hay có hệ thống; đã qua giáo dục, ngăn chặn vẫn làm trái; không tự giác nhận lỗi, không bồi hoàn vật chất hoặc có hành vi đối phó với việc kiểm tra; phân biệt người khởi xướng, tổ chức, quyết định với người bị lôi kéo, đồng tình làm sai.
Đối với đảng viên là người dân tộc thiểu số công tác, sinh hoạt ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn, đảng viên theo tôn giáo vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì tuỳ theo tình hình thực tế mà vận dụng xử lý cho phù hợp.
Kỷ luật đảng không thay thế cho kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể hoặc việc xử lý bằng pháp luật và ngược lại. Cấp uỷ quản lý đảng viên sau khi xem xét, xử lý hoặc chỉ đạo việc xem xét, xử lý về kỷ luật đảng thì phải chỉ đạo các tổ chức có trách nhiệm xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính hoặc đoàn thể được kịp thời. Trường hợp không thuộc thẩm quyền của mình thì phải kiến nghị với tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, xử lý. Khi các tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị – xã hội đình chỉ công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với cán bộ, hội viên, đoàn viên là đảng viên thì chủ động thông báo cho tổ chức đảng quản lý đảng viên đó để xem xét, xử lý kỷ luật đảng. Sau khi giải quyết khiếu nại kỷ luật về đảng, nếu có thay đổi hình thức kỷ luật, tổ chức đảng có thẩm quyền phải chỉ đạo việc xem xét lại hình thức kỷ luật về hành chính, về đoàn thể.
Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải chuyển cơ quan pháp luật khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý nội bộ. Nếu làm thất thoát tài sản của Nhà nước, của tập thể, của người khác thì phải bồi hoàn.
Trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật khi đang công tác, nhưng sau khi chuyển công tác hoặc nghỉ hưu mới phát hiện vi phạm thì vẫn xem xét, kết luận. Nếu có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì căn cứ nội dung, mức độ, tinh chất, tác hại và nguyên nhân vi phạm mà áp dụng hình thức kỷ luật phù hợp.
Đối với đảng viên là cấp uỷ viên các cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý đã nghỉ hưu nếu có vi phạm khi đang công tác, nay mới phát hiện thì thẩm quyền thi hành kỷ luật của các tổ chức đảng được thực hiện như đối với đảng viên là cấp uỷ viên các cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý đang đương chức; nếu có vi phạm kỷ luật khi đã nghỉ hưu thì do tổ chức đảng quản lý đảng viên đó xử lý kỷ luật theo thẩm quyền.
Đảng viên sau khi chuyển công tác sang tổ chức đảng khác nếu phát hiện vi phạm kỷ luật ở nơi công tác cũ mà chưa được xem xét, xử lý thì do tổ chức đảng cấp trên của các tổ chức đó xem xét, xử lý theo phân cấp quản lý cán bộ.
2. Hình thức kỷ luật
– Đối với tổ chức đảng: khiển trách, cảnh cáo giải tán.
– Đối với đảng viên chính thức: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ.
– Đối với đảng viên dự bị, khiển trách, cảnh cáo.
Đảng viên chính thức vi phạm nghiêm trọng đến mức phải khai trừ thì phải thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ, không áp dụng biện pháp xoá tên trong danh sách đảng viên, cũng không chấp nhận việc xin ra khỏi Đảng.
Đảng viên dự bị vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo và khi hết thời hạn dự bị, chi bộ vẫn tiến hành xét công nhận đảng viên chính thức. Nếu vi phạm đến mức không còn đủ tư cách đảng viên thì xoá tên trong danh sách đảng viên, không thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ.
Điều 36. Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm.
Chỉ có các tổ chức đảng do Điều lệ Đảng quy định và Ban Chấp hành Trung ương uỷ quyền mới có thẩm quyền thi hành kỷ luật đối với đảng viên vi phạm.
Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm của các tổ chức đảng do Điều lệ Đảng quy định như sau:
1. Chi bộ quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong chi bộ (kể cả cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao).
Đảng uỷ cơ sở quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ, cách chức cấp uỷ viên cấp dưới.
Đảng uỷ cơ sở được uỷ quyền quyết định kết nạp đảng viên thì có quyền quyết định khai trừ đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý.
– Chi bộ:
Chi bộ (gồm chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ sở hoặc đảng bộ bộ phận) quyết định khiển trách, cánh cáo đối với đảng viên trong chi bộ (kể cả đảng viên là cấp uỷ viên các cấp, đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao). Nếu phải áp dụng hình thức kỷ luật cao hơn, chi bộ đề nghị lên cấp có thẩm quyền xem xét quyết định.
Quyết định kỷ luật khiển trách, cảnh cáo của chi bộ đối với đảng viên là cấp uỷ viên các cấp, là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý phải báo cáo lên cấp uỷ (hoặc các cấp uỷ) mà đảng viên đó là thành viên, cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ quản lý cán bộ đó để biết.
– Đảng uỷ cơ sở:
+ Quyết định khiển trách, cảnh cáo đối với đảng viên. Đối với cấp uỷ viên cấp trên trực tiếp trở lên và cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý sinh hoạt tại đảng bộ, nếu vi phạm phải áp dụng hình thức kỷ luật thì đảng uỷ đề nghị lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
+ Quyết định cách chức bí thư, phó bí thư, cấp uỷ viên của chi bộ hoặc đảng uỷ bộ phận trực thuộc nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý.
+ Đảng uỷ cơ sở được uỷ quyền quyết định kết nạp đảng viên thì có quyền quyết định kỷ luật đối với đảng viên như thẩm quyền của đảng uỷ cơ sở và được quyền quyết định khai trừ đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý.
– Lưu ý:
+ Đảng uỷ bộ phận và ban thường vụ đảng uỷ cơ sở không được quyền thi hành kỷ luật đảng viên, nhưng có trách nhiệm thẩm tra việc đề nghị thi hành kỷ luật của chi bộ. Ban thường vụ đảng uỷ cơ sở còn có trách nhiệm thẩm tra đề nghị của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở để kiến nghị với đảng uỷ cơ sở xem xét, quyết định theo thẩm quyền.
+ Trường hợp tất cả cấp uỷ viên của chi bộ và của đảng bộ cơ sở đều bị thi hành kỷ luật khiển trách, cảnh cáo thì báo cáo để tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên ra văn bản quyết định.
+ Việc cách chức, khai trừ đối với cấp uỷ viên của chi bộ cơ sở do chi bộ cơ sở đề nghị, ban thường vụ cấp uỷ cấp huyện, quận hoặc tương đương quyết định.
2. Cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp
Ban thường vụ cấp uỷ quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp và cấp trên.
– Cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương:
+ Quyết định các hình thức kỷ luật đối với đảng viên.
+ Đối với các hình thức khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp, sau khi cấp uỷ biểu quyết đủ số phiếu quy định, quá một nửa số phiếu cho một hình thức kỷ luật thì ra quyết định và đồng chí bí thư hoặc phó bí thư thường trực cấp uỷ thay mặt cấp uỷ ký quyết định đó.
Trường hợp cấp uỷ viên cấp mình đồng thời là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên trực tiếp quản lý (bí thư, phó bí thư, kể cả uỷ viên thường vụ trực, chủ tịch uỷ ban nhân dân, chủ tịch hội đồng nhân dân,…), sau khi cấp uỷ biểu quyết đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo thì cấp uỷ báo cáo để ban thường vụ cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định; ở cấp tỉnh, thành và đảng uỷ trực thuộc Trung ương thì báo cáo Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xem xét, quyết định theo thẩm quyền; những trường hợp không thuộc thẩm quyền thì Uỷ ban Kiểm tra Trung ương báo cáo đề nghị Ban Bí thư, Bộ Chính trị xem xét, quyết định.
Đối với các hình thức cách chức, khai trừ cấp uỷ viên cấp mình, sau khi cấp ủy biểu quyết đủ số phiếu đề nghị theo quy định thì cấp uỷ đề nghị uỷ ban kiểm tra cấp trên báo cáo ban thường vụ cấp uỷ cùng cấp xem xét, quyết định. Ở cấp tỉnh, thành và đảng uỷ trực thuộc Trung ương thì báo cáo Uỷ ban Kiểm tra Trung ương để báo cáo Ban Bí thư, Bộ Chính trị xem xét, quyết định.
– Ban thường vụ cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương:
+ Quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp.
+ Quyết định các hình thức kỷ luật đối với đảng viên, kể cả bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban thường vụ, cấp uỷ viên cấp dưới trực tiếp và cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp mình quản lý nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp.
3. Ban Chấp hành Trung ương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị
Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, nhưng không phải là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương.
4. Uỷ ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý và cấp uỷ viên cấp dưới trực tiếp
– Uỷ ban kiểm tra của đảng uỷ cơ sở không được quyền thi hành kỷ luật đảng viên, nhưng có trách nhiệm xem xét, kết luận và đề xuất ý kiến với đảng uỷ cơ sở và uỷ ban kiểm tra cấp trên trong việc xử lý kỷ luật đảng viên.
– Uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ huyện, quận và tương đương quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cơ sở (kể cả bí thư, phó bí thư, uỷ viên thường vụ) và cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp mình quản lý thưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp; quyết định các hình thức kỷ luật đối với đảng viên, kể cả đảng viên là bí thư, phó bí thư, cấp uỷ viên của chi bộ, đảng uỷ bộ phận trực thuộc đảng bộ cơ sở hoặc cán bộ thuộc diện đảng uỷ cơ sở quản lý nhưng không phải là đảng uỷ viên đảng uỷ cơ sở hay cán bộ do cấp uỷ huyện, quận và cấp tương đương quản lý.
– Uỷ ban kiểm tra của tỉnh uỷ, thành uỷ và của cấp uỷ tương đương quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên huyện, quận và tương đương (kể cả bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban thường vụ); cán bộ thuộc diện tỉnh uỷ, thành uỷ và cấp uỷ tương đương quản lý nhưng không phải là tỉnh uỷ, thành uỷ, cấp uỷ viên cấp tương đương; quyết định các hình thức kỷ luật đối với đảng viên, kể cả bí thư, phó bí thư, cấp uỷ viên cơ sở trở xuống nhưng không phải là cấp uỷ viên cấp huyện, quận hoặc cán bộ do cấp uỷ tỉnh, thành và cấp tương đương quản lý.
5. Cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp trên có quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật do cấp dưới quyết định
Quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp trên đã nêu ở mục 5 (2-), Điều 32.
6. Đảng viên giữ nhiều chức vụ bị kỷ luật cách chức thì tuỳ mức độ, tính chất vi phạm mà cách một hay nhiều chức vụ
Chức vụ nói ở đây bao gồm: chức vụ trong Đảng do đại hội bầu, cấp uỷ bầu, chỉ định hoặc bổ nhiệm đối với đảng viên đó.
Trường hợp đảng viên tham gia nhiều cấp uỷ, vi phạm đến mức phải cách chức cấp uỷ viên cao nhất hoặc khai trừ thì ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp của cấp uỷ cấp cao nhất mà đảng viên đó là thành viên quyết định. Nếu phải cách chức cấp uỷ viên ở một cấp dưới do ban thường vụ cấp uỷ quản lý đảng viên đó quyết định. Ví dụ: đồng chí bí thư đảng uỷ xã là huyện uỷ viên bị cách chức bí thư đảng uỷ xã thì ban thường vụ huyện uỷ quyết định, bị cách chức huyện uỷ viên hoặc khai trừ do ban thường vụ tỉnh uỷ quyết định.
Đảng viên giữ nhiều chức vụ vi phạm kỷ luật phải cách chức một, một số hay tất cả các chức vụ hoặc phải khai trừ, thì tổ chức đảng quản lý đảng viên đó quyết định. Ví dụ: đồng chí giám đốc sở kiêm bí thư đảng uỷ cơ quan sở bị cách chức bí thư đảng uỷ thì do ban thường vụ tỉnh uỷ quyết định (không thuộc thẩm quyền của ban thường vụ đảng uỷ khối trực thuộc tỉnh uỷ quyết định).
Trong cùng một cấp uỷ, nếu chỉ cách chức bí thư, phó bí thư thì còn chức uỷ viên ban thường vụ. Nếu cách chức uỷ viên ban thường vụ thì còn chức cấp uỷ viên. Khi cách chức cấp uỷ viên thì đương nhiên không còn chức bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban thường vụ. Khi cách chức uỷ viên uỷ ban kiểm tra thì đương nhiên không còn là chủ nhiệm, phó chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ đó nữa.
– Đảng viên tham gia nhiều cấp uỷ, giữ nhiều chức vụ, bị thi hành kỷ luật bằng hình thức cách chức một chức vụ đang giữ, thì cấp uỷ có thâm quyền phải xem xét đến các chức vụ khác, có thể cách chức hoặc cho thôi giữ một hoặc nhiều chức vụ khác.
– Việc thi hành kỷ luật đối với uỷ viên uỷ ban kiểm tra là cấp uỷ viên tiến hành như đối với cấp uỷ viên. Nếu uỷ viên uỷ ban kiểm tra không phải là cấp uỷ viên thì việc thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo tiến hành như đối với cán bộ do cấp uỷ cùng cấp quản lý; trường hợp cách chức, khai trừ thì do cấp uỷ cùng cấp quyết định.
– Trường hợp cấp uỷ viên vi phạm đến mức cách chức nhưng lại chủ động xin rút khỏi cấp uỷ thì vẫn phải thành kỷ luật bằng hình thức cách chức, không chấp nhận cho rút khỏi cấp uỷ.
Điều 37. Thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng vi phạm.
1. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định khiển trách, cảnh cáo tổ chức đảng cấp dưới.
2. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng do cấp uỷ cấp trên trực tiếp đề nghị, cấp uỷ cấp trên cách một cấp quyết định. Quyết định này phải báo cáo lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
3. Chỉ giải tán một tổ chức đảng khi tổ chức đảng đó phạm một trong các trường hợp sau: có hành động chống đường lối, chính sách của Đảng; vi phạm đặc biệt nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng hoặc pháp luật của Nhà nước.
– Đảng uỷ cơ sở, cấp uỷ và ban thường vụ cấp uỷ huyện, quận và tương đương trở lên có quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng theo quy định của Điều lệ Đảng. Uỷ ban kiểm tra các cấp không được quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng nhưng có trách nhiệm xem xét, kết luận, đề xuất ý kiến với cấp uỷ trong việc xử lý kỷ luật tổ chức đảng.
Thi hành kỷ luật một tổ chức đảng phải xem xét và quy rõ trách nhiệm của tổ chức đó để xử lý cho đúng. Đồng thời, phải xem xét trách nhiệm cá nhân và thi hành kỷ luật đối với những đảng viên vi phạm có liên quan đến vi phạm của tổ chức đảng.
– Khi tổ chức đảng bị thi hành kỷ luật thì tất cả thành viên trong tổ chức ấy đều phải chịu trách nhiệm, phải ghi rõ nội dung, hình thức kỷ luật đối với tổ chức vào lý lịch từng thành viên. Những thành viên không tán thành hoặc không liên quan trực tiếp đến quyết định sai lầm của tổ chức đó cũng được ghi rõ vào lý lịch đảng viên.
– Tổ chức đảng bị khiển trách, cảnh cáo do cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định. Tổ chức đảng bị giải tán do cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp đề nghị; cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ cấp trên một cấp quyết định. Ví dụ: giải tán chi bộ trong đảng bộ cơ sở thì đảng uỷ cơ sở đề nghị; ban thường vụ huyện uỷ, quận uỷ, cấp uỷ tương đương quyết định. Đảng uỷ đảng bộ bộ phận không có thẩm quyền thi hành kỷ luật.
– Những tổ chức đảng vi phạm một trong các nội dung sau đây thì giải tán:
+ Có hành động chống đối quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng với các hành vi cụ thể như: tổ chức, kích động, xúi giục, cưỡng bức quần chúng mít tinh, biểu tình trái với quy định của pháp luật; xuyên tạc sự thật, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; có hành động cụ thể chống Đảng.
+ Vi phạm đặc biệt nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng hoặc pháp luật Nhà nước với các hành vì cụ thể như: bỏ nhiều kỳ không sinh hoạt; cố ý không chấp hành nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách, các nguyên tắc, quy chế, quy định, quyết định của Đảng, pháp luật Nhà nước; chia rẽ bè phái, mất đoàn kết nghiêm trọng, không còn vai trò và tác dụng lãnh đạo đối với địa phương, đơn vị.
Ngoài hai nội dung nêu trên, nếu tổ chức đảng có vi phạm những nội dung sau thì cần làm rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân vi phạm (do cơ ý, do nhận thức không đúng, do năng lực lãnh đạo yếu, do cơ chế,…) và căn cứ việc tự phê bình, tiếp thu phê bình, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm để vận dụng xử lý bằng hình thức phù hợp.
Vì lợi ích cục bộ mà có nghị quyết, quyết định sai (cấp đất, bán đất, cho đấu thầu đất sai quy định, khai không đúng các khoản phí, lệ phí do nhân dân đóng góp, huy động vốn nhưng mất khả năng thanh toán, quy định để tỷ lệ phần trăm bồi dưỡng để xin vốn, khoanh nợ, giảm diện tích, giấu nguồn thu, trích lại các khoản tiền hỗ trợ khắc phục thiên tai, trợ giá, lập quỹ trái phép,…) nhằm thu tiền, chi tiêu sai mục đích dẫn đến làm thất thoát, tham nhũng, lãng phí gây hậu quả xấu; hữu khuynh, buông lỏng lãnh đạo, quản lý, điều hành để tổ chức và nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và pháp luật Nhà nước,…; không chấp hành nghiêm chế độ tự phê bình, phê bình, chế độ kiểm tra, bao che vi phạm.
Điều 38:
1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm không thuộc thẩm quyền quyết định kỷ luật của cấp mình thì đề nghị lên cấp có thẩm quyền quyết định.
– Các tổ chức đảng có quyền quyết định hoặc đề nghị thi hành kỷ luật theo quy định của Điều lệ Đảng. Khi xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm, phải quyết định theo đúng thẩm quyền, nếu không thuộc thẩm quyền thì đề nghị tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định.
– Việc biểu quyết kỷ luật (biểu quyết đề nghị, biểu quyết quyết định) phải bằng phiếu kín. Trường hợp biểu quyết kỷ luật không đủ số phiếu cần thiết thì báo cáo đầy đủ bằng văn bản kết quả bỏ phiếu để tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định.
2. Trường hợp tổ chức đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử ký không đúng mức đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm thì cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên quyết định các hình thức kỷ luật theo thẩm quyền, đồng thời xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng đó.
Qua hoạt động công tác kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện có trường hợp vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật nhưng tổ chức đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử lý không đúng mức thì cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp quyết định xử lý kỷ luật theo thẩm quyền, không phải làm thủ tục từ dưới lên. Tổ chức đảng cấp dưới, tổ chức đảng và đảng viên vi phạm bị xử lý phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định xử lý kỷ luật của tổ chức đảng cấp trên.
Đối với tổ chức đảng có trách nhiệm xem xét, xử lý, nhưng không xử lý hoặc xử lý không đúng mức tổ chức đảng và đảng viên vi phạm là có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng, phải được kiểm tra làm rõ đúng, sai và nguyên nhân; nếu xét thấy có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì phải xử lý đúng mức tổ chức đảng đó.
3. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng và khai trừ đảng viên phải được ít nhất hai phần ba số thành viên của tổ chức đảng cấp dưới đề nghị và do tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định.
Quyết định kỷ luật hoặc đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo, cách chức đối với đảng viên; khiển trách, cảnh cáo đối với tổ chức đảng phải được biểu quyết với sự đồng ý của trên một nửa số đảng viên hoặc cấp uỷ viên của tổ chức đảng đó. Trường hợp khai trừ đảng viên, giải tán tổ chức đảng thì phải được sự đồng ý của ít nhất hai phần ba số đảng viên hoặc cấp uỷ viên của tổ chức đảng cấp dưới đề nghị và được sự đồng ý của trên một nửa số thành viên của tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền quyết định.
Một nửa hay hai phần ba quy định ở trên được tính trên tổng số thành viên có quyền biểu quyết của tổ chức đảng (ở chi bộ là số đảng viên chính thức, trừ số đảng viên được miễn sinh hoạt không có mặt tại cuộc họp; ở cấp uỷ là tổng số cấp uỷ viên), không phải tính trên số thành viên có mặt trong cuộc họp.
Điều 39:
1. Đảng viên vi phạm kỷ luật phải kiểm điểm trước chi bộ, tự nhận hình thức kỷ luật; nếu từ chối kiểm điểm hoặc bị tạm giam, tổ chức đảng vẫn tiến hành xem xét kỷ luật. Trường hợp cần thiết, cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp có thẩm quyền trực tiếp xem xét kỷ luật.
Cấp uỷ hướng dẫn đảng viên vi phạm kỷ luật chuẩn bị tốt bản tự kiểm điểm. Hội nghị chi bộ thảo luận, góp ý kiến và kết luận rõ về nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm và biểu quyết (đề nghị hoặc quyết định) kỷ luật. Đại diện cấp uỷ tham dự hội nghị chi bộ xem xét kỷ luật đảng viên là cấp uỷ viên, là cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý. Trường hợp có đầy đủ bằng chứng, nếu đảng viên vi phạm từ chối kiểm điểm hoặc bị tạm giam thì tổ chức đảng vẫn tiến hành xem xét kỷ luật.
Đảng viên vi phạm là cấp uỷ viên hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý cùng với việc kiểm điểm ở chi bộ còn phải kiểm điểm ở những tổ chức đảng nào nữa thì do cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ quản lý đảng viên đó quyết định. Ví dụ: một đảng viên là huyện uỷ viên, trưởng phòng của huyện, sinh hoạt tạm chi bộ trực thuộc huyện uỷ vi phạm kỷ luật thì chi bộ, huyện uỷ có trách nhiệm trực tiếp xem xét, kiểm điểm đảng viên đó. Trường hợp đặc biệt (đảng viên vi phạm khi thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao hoặc nội dung vi phạm liên quan đến bí mật của Đảng và Nhà nước mà chi bộ không biết hay đảng viên vi phạm trước khi chuyển đến sinh hoạt ở chi bộ, đảng viên vi phạm trong cùng một vụ án có liên quan đến nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp,…) thì cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra có thẩm quyền trực tiếp xem xét, quyết định kỷ luật, không cần yêu cầu đảng viên đó phải kiểm điểm trước chi bộ.
2. Tổ chức đảng vi phạm phải kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên quyết định.
Nếu tổ chức đảng có vi phạm kỷ luật thì cơ quan lãnh đạo (thường trực cơ quan lãnh đạo) hoặc người đứng đầu của tổ chức đảng đó chuẩn bị nội dung kiểm điểm, báo cáo trước hội nghị tổ chức mình để kiểm điểm làm rõ đúng, sai, nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, nguyên nhân của vi phạm, trách nhiệm của tổ chức, các thành viên và biểu quyết tự nhận hình thức kỷ luật của tổ chức, của từng thành viên có liên quan và báo cáo lên tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định. Đại diện của tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền tham dự hội nghị này.
3. Trước khi quyết định kỷ luật, đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền nghe đảng viên vi phạm hoặc đại diện tổ chức đảng vi phạm trình bày ý kiến.
Trước khi quyết định kỷ luật, đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền nghe đảng viên vi phạm trình bày ý kiến và ý kiến này được báo cáo đầy đủ (cùng với bản tự kiểm điểm của đảng viên đó) khi tổ chức đảng có thẩm quyền họp để xem xét, quyết định kỷ luật.
Đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền quy định ở điểm này là đại diện của cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật. Đại diện của cấp uỷ có thẩm quyền do cấp uỷ phân công, có thể là bí thư, phó bí thư thường trực, uỷ viên thường vụ là chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra hoặc trưởng ban tổ chức, cấp uỷ viên phụ trách khối công tác hoặc địa bàn (nơi đảng viên và tổ chức đảng vi phạm sinh hoạt hoặc hoạt động). Đại diện uỷ ban kiểm tra có thể là chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, uỷ viên uỷ ban phụ trách địa bàn hoặc lĩnh vực công tác.
Trình bày ý kiến với tổ chức đảng có thẩm quyền trước khi bị thi hành kỷ luật là quyền và trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên. Nếu đảng viên hoặc người đại diện tổ chức đảng vi phạm, vì một lý do nào đó mà không trực tiếp trình bày ý kiến với tổ chức đảng có thẩm quyền khi được yêu cầu thì phải báo cáo với tổ chức đảng có thẩm quyền bằng văn bản và nghiêm chỉnh chấp hành quyết định kỷ luật của tổ chức đảng có thẩm quyền.
4. Quyết định của cấp dưới về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải báo cáo lên cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp: nếu đảng viên vi phạm tham gia nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng thì phải báo cáo đến các cơ quan lãnh đạo cấp trên mà đảng viên đó là thành viên.
5. Quyết định của cấp trên về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải được thông báo đến cấp dưới, nơi có tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; trường hợp cần thông báo rộng hơn thì do cấp uỷ có thẩm quyền quyết định.
Quyết định thi hành kỷ luật, quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm phải được trao cho tổ chức đảng và đảng viên vi phạm để chấp hành. Nếu cần thông báo rộng hơn thì do cấp uỷ quản lý đảng viên đó quyết định.
Phạm vi thông báo các quyết định thi hành kỷ luật, quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật đối với đảng viên là cấp uỷ viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý do cấp uỷ quản lý đảng viên đó quyết định.
6. Kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm có hiệu lực ngay sau khi công bố quyết định.
Ở chi bộ, quyết định khiển trách, cảnh cáo đối với đảng viên có hiệu lực ngay sau khi chi bộ công bố kết quả biểu quyết quyết định kỷ luật. Trong vòng 10 ngày sau đó, chi uỷ làm văn bản để báo cáo cấp trên và lưu hồ sơ. Văn bản của chi bộ (trong đảng bộ bộ phận, trong đảng bộ cơ sở) được đóng dấu của đảng uỷ cơ sở vào phía trên, góc trái. Đảng uỷ cơ sở hoặc cấp uỷ cấp trên trực tiếp không phải ra quyết định chuẩn y.
Tổ chức đảng có thẩm quyền sau khi ký quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật, phải kịp thời công bố, chậm nhất không quá 15 ngày kể từ ngày ký. Tổ chức đảng ký quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật có thể trực tiếp công bố hoặc uỷ quyền cho tổ chức đảng cấp dưới công bố. Tổ chức đảng cấp dưới được uỷ quyền chậm nhất không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, phải công bố quyết định cho tổ chức đảng hoặc đảng viên bị kỷ luật hoặc khiếu nại kỷ luật. Nếu quá hạn trên, phải báo cáo ngay với cấp có thẩm quyền quyết định.
Việc công bố quyết định kỷ luật, công bố quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật phải có đại diện tổ chức đảng ra quyết định (hoặc được uỷ quyền công bố quyết định), đại diện tổ chức đảng quản lý đảng viên bị thi hành kỷ luật, đại diện tổ chức đảng bị thi hành kỷ luật, đảng viên bị thi hành kỷ luật và phải lập biên bản lưu hồ sơ. Trường hợp đảng viên bị thi hành kỷ luật từ chối nghe công bố hoặc không nhận quyết định thì ghi vào biên bản, quyết định vẫn được công bố và có hiệu lực thi hành ngay.
Đề nghị của cấp dưới về thi hành kỷ luật cách chức, khai trừ đối với đảng viên và giải tán đối với tổ chức đảng nếu chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định và công bố thì đảng viên đó vẫn được sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng đó vẫn được hoạt động.
7. Tổ chức đảng, đảng viên không đồng ý với quyết định kỷ luật thì trong vòng một tháng kể từ ngày nhận quyết định có quyền khiếu nại với cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên cho đến Ban Chấp hành Trung ương.
Việc giải quyết khiếu nại kỷ luật thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
8. Khi nhận khiếu nại kỷ luật, cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra thông báo cho tổ chức đảng hoặc đảng viên khiếu nại biết; chậm nhất ba tháng đối với cấp tỉnh, thành phố, huyện, quận và tương đương, sáu tháng đối với cấp Trung ương kể từ ngày nhận được khiếu nại phải xem xét, giải quyết, trả lời cho tổ chức đảng và đảng viên khiếu nại biết.
9. Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, tổ chức đảng và đảng viên bị kỷ luật phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kỷ luật.
Các khoản 7, 8, 9, Điều 39 đã được nêu tại mục 5 (2-), Điều 32.
Điều 40:
1. Đảng viên bị hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên phải khai trừ ra khỏi Đảng.
Khi cơ quan có thẩm quyền bắt (kể cả bắt trong trường hợp phạm pháp quả tang), khám xét khẩn cấp đối với công dân là đảng viên thì tổ chức đảng hoặc đảng viên là thủ trưởng cơ quan đó có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho tổ chức đảng trực tiếp quản lý đảng viên đó biết về vi phạm của đảng viên.
Khi đảng viên bị khởi tố, truy tố hoặc bị tạm giam, nếu tổ chức đảng có thẩm quyền kết luận rõ đảng viên có vi phạm đến mức phải xử lý thì phải chủ động xem xét, xử lý kỷ luật đảng, không nhất thiết phải chờ kết luận hoặc tuyên phạt của toà án có thẩm quyền. Sau khi có bản án hoặc quyết định của toà án, nếu thấy cần thiết, tổ chức đảng có thẩm quyền thi hành kỷ luật xem xét lại việc thi hành kỷ luật đảng đối với đảng viên đó.
Trường hợp bị toà án có thẩm quyền tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam giữ trở lên, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật phải khai trừ (đối với đảng viên chính thức) hoặc xoá tên trong danh sách đảng viên (đối với đảng viên dự bị).
Trường hợp đảng viên vi phạm pháp luật bị xử lý bằng các hình phạt thấp hơn thì tuỳ mức độ, tính chất vi phạm mà xem xét, quyết định thi hành kỷ luật đảng bằng hình thức thích hợp (kể cả khai trừ, nếu xét thấy vi phạm kỷ luật đến mức phải khai trừ). Trường hợp đảng viên bị xử oan, sai mà đã được toà án có thẩm quyền quyết định huỷ bỏ bản án, các tổ chức đảng có thẩm quyền phải xem xét lại việc thi hành kỷ luật đối với đảng viên đó, kể cả trường hợp đã chết.
2. Tổ chức đảng bị kỷ luật giải tán, cấp uỷ cấp trên trực tiếp lập tổ chức đảng mới hoặc giới thiệu sinh hoạt đảng cho số đảng viên còn lại.
Đối với chi bộ, đảng bộ bị kỷ luật giải tán, sau khi được sự đồng ý của tổ chức đảng có thẩm quyền giải tán, cấp uỷ cấp trên trực tiếp của chi bộ, đảng bộ đó ra quyết định lập chi bộ, đảng bộ mới.
Ở chi bộ, đảng bộ bị kỷ luật giải tán, có những đảng viên vi phạm chưa đến mức phải khai trừ, thì tổ chức đảng có thẩm quyền thi hành kỷ luật căn cứ nội dung, mức độ, tính chất, tác hại và nguyên nhân vi phạm của từng người mà xem xét, xử lý kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, cách chức) trước khi quyết định chuyển sinh hoạt đảng đến chi bộ, đảng bộ mới lập hoặc giới thiệu sinh hoạt đến chi bộ, đảng bộ khác.
– Đối với cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ bị giải tán, cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét thi hành kỷ luật những thành viên của tổ chức đảng đó và chỉ định lập cấp uỷ lâm thời, bầu ban thường vụ cấp uỷ mới.
– Những đảng viên vi phạm đến mức phải kỷ luật khai trừ thì khai trừ ra khỏi Đảng. Tổ chức đảng có thẩm quyền thi hành kỷ luật ra quyết định khai trừ từng người một.
3. Đảng viên bị kỷ luật cách chức, trong vòng một năm kể từ ngày có quyết định, không được bầu vào cấp uỷ, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương và cao hơn.
Đảng viên bị thi hành kỷ luật bằng hình thức cách chức, bao gồm cả chức vụ do đại hội bầu, cấp uỷ bầu, chỉ định hoặc bổ nhiệm, trong vòng một năm kể từ ngày công bố quyết định, không được bầu vào cấp uỷ (từ chi uỷ trở lên), không chỉ định, bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương và cao hơn.
4. Việc đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên, đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng, phải được cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra có thẩm quyền quyết định theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
– Đảng viên (kể cả cấp uỷ viên) có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng (đến mức có thể phải khai trừ) mà có hành động cụ thể cố ý gây trở ngại cho hoạt động của cấp uỷ và công tác kiểm tra của Đảng hoặc bị cơ quan pháp luật có thẩm quyền ra quyết định truy tố, tạm giam thì phải đình chỉ sinh hoạt đảng.
– Cấp uỷ viên có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng (đến mức có thể phải cách chức cấp uỷ viên) mà có hành động cụ thể cố ý gây trở ngại cho hoạt động của cấp uỷ và công tác kiểm tra của Đảng hoặc bị cơ quan pháp luật có thẩm quyền ra quyết định khởi tố thì phải đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ.
– Tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng mà có hành động cụ thể cố ý gây trở ngại cho hoạt động của tổ chức đảng, cho công tác lãnh đạo và kiểm tra của Đảng thì đình chỉ hoạt động.
Lưu ý: Cấp uỷ viên bị đình chỉ sinh hoạt đảng đương nhiên bị đình chi sinh hoạt cấp uỷ.
– Thẩm quyền đình chỉ sinh hoạt, hoạt động:
Tổ chức đảng quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên là tổ chức đảng có thẩm quyền khai trừ đối với đảng viên đó. Ví dụ: đình chỉ sinh hoạt đảng của một huyện uỷ viên do ban thường vụ tỉnh uỷ quyết định.
Tổ chức đảng quyết định đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ viên là tổ chức đảng có thẩm quyền cách chức cấp uỷ viên đó. Ví dụ: đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ viên cơ sở do ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định.
Tổ chức đảng quyết định đình chỉ hoạt động của một tổ chức đảng là tổ chức đảng có thẩm quyền giải tán tổ chức đó. Ví dụ: ban thường vụ tỉnh uỷ quyết định đình chỉ hoạt động của một cấp uỷ cơ sở trực thuộc huyện uỷ.
– Thời hạn đình chỉ sinh hoạt, hoạt động:
+ Thời hạn đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên và đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật đảng là 90 ngày. Trường hợp cần thiết phải gia hạn, thì thời hạn đình chỉ kể cả gia hạn nhiều nhất không quá 180 ngày. Thời hạn đình chỉ hoạt động đối với tổ chức đảng nhiều nhất không quá 90 ngày.
+ Thời hạn đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên (kể cả cấp uỷ viên) bị truy tố, bị tạm giam và thời hạn đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên bị khởi tố được tính theo thời hạn quy định của pháp luật (kể cả gia hạn, nếu có). Tổ chức đảng quản lý đảng viên bị tạm giam hoặc truy tố hay bị khởi tố cần chủ động quan hệ với tổ chức đảng và đảng viên là thủ trưởng của cơ quan pháp luật (cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử) nắm chắc thời hạn tạm giam của đảng viên, cấp uỷ viên, không để kéo dài so với quy định của pháp luật. Tổ chức đảng và đảng viên là thủ trưởng của cơ quan pháp luật có thẩm quyền quyết định khởi tố, tạm giam, truy tố đối với công dân là đảng viên, cấp uỷ viên phải chủ động thông báo ngay bằng văn bản các quyết định nói lên (kể cả khi gia hạn) đến cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ quản lý đảng viên, cấp uỷ viên đó.
– Việc quyết định cho đảng viên, cấp uỷ viên trở lại sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ và tổ chức đảng trở lại hoạt động:
+ Tổ chức đảng có thẩm quyền phải nhanh chóng xem xét, kết luận nội dung vi phạm của đảng viên, cấp uỷ viên bị đình chỉ sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng bị đình chỉ hoạt động để quyết định đảng viên, cấp uỷ viên trở lai sinh hoạt, tổ chức đảng trở lại hoạt động và xem xét, xử lý kỷ luật đảng bằng hình thức phù hợp; kịp thời chỉ đạo việc xem xét, xử lý kỷ luật về chính quyền, về các đoàn thể. Trường hợp không thuộc thẩm quyền thì phải chỉ đạo hoặc kiến nghị với các tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, quyết định. Trường hợp đảng viên đang bị tạm giam, bị truy tố, xét xử thì tổ chức đảng có thẩm quyền nếu nắm vững vi phạm của đảng viên đó, có thể quyết định thi hành kỷ luật ngay bằng hình thức phù hợp, không nhất thiết phải quyết định cho đảng viên, cấp uỷ viên, tổ chức đảng trở lại sinh hoạt, hoạt động mới xem xét, xử lý kỷ luật.
+ Khi đảng viên không còn bị tạm giam và không bị cơ quan pháp luật truy tố, thì tổ chức đảng hoặc đảng viên là thủ trưởng của cơ quan pháp luật có trách nhiệm thông báo kịp thời bằng văn bản đến cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ quản lý đảng viên đó để quyết định cho đảng viên trở lại sinh hoạt và xem xét, xử lý kỷ luật đảng (nếu đến mức phải thi hành kỷ luật). Trường hợp đình chỉ điều tra thì quyết định cho cấp uỷ viên trở lại sinh hoạt cấp uỷ.
Trường hợp hết thời hạn tạm giam hoặc không bị tạm giam, nhưng vẫn bị truy tố xét xử thì tổ chức đảng chưa quyết định cho đảng lên trở lại sinh hoạt đảng.
+ Về thủ tục ra quyết định đình chỉ, quyết định trở lại sinh hoạt, hoạt động:
Tổ chức đảng nào quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên, đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng thì tổ chức đảng đó quyết định cho đảng viên, cấp uỷ viên, tổ chức đảng trở lại sinh hoạt, hoạt động. Ủy ban kiểm tra giúp cấp uỷ chuẩn bị các văn bản, quyết định các trường hợp thuộc thẩm quyền của cấp uỷ.
Hướng dẫn này được ban hành trong hệ thống Đảng tới các chi bộ, có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Các tổ chức đảng và đảng viên có trách nhiệm thi hành.
Các hướng dẫn trước đây trái với nội dung Hướng dẫn này đều bãi bỏ.
—————————————————

 Hỏi: Đảng viên hoặc tổ chức Đảng bị xử lý kỷ luật, thực hiện quyền khiếu nại về kỷ luật như thế nào và trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại có phải chấp hành kỷ luật đã ban hành không?

 Đáp: Điều 39 Điều lệ Đảng quy định: “Tổ chức Đảng, đảng viên không đồng ý với quyết định kỷ luật thì trong vòng một tháng kể từ ngày nhận quyết định, có quyền khiếu nại với cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên cho đến BCH Trung ương… Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, tổ chức Đảng và đảng viên bị kỷ luật phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kỷ luật”.

 Về thực hiện quyền khiếu nại, Hướng dẫn ban hành kèm theo Quyết định số 25-QĐ/TƯ của Bộ Chính trị khóa X tại Điểm 5-Điều 32 quy định: “Đối tượng bị thi hành kỷ luật không đồng ý với quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật thì được khiếu nại lên tổ chức Đảng cấp trên, lần lượt cho đến BCH Trung ương.

 Thời hạn khiếu nại trong vòng một tháng tính từ ngày tổ chức Đảng và đảng viên vi phạm được tổ chức có thẩm quyền công bố và giao quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật (căn cứ vào biên bản công bố quyết định kỷ luật, hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật) đến ngày tổ chức Đảng và đảng viên bị thi hành kỷ luật gửi thư khiếu nại (gửi trực tiếp hoặc theo dấu Bưu điện chuyển đi).

 Hướng dẫn còn nêu rõ, đảng viên không khiếu nại vượt cấp khi tổ chức Đảng có thẩm quyền chưa giải quyết xong; không gửi thư khiếu nại đến nhiều cấp cùng một lúc, đến các tổ chức và cá nhân không có thẩm quyền giải quyết; không khiếu nại hộ đảng viên bị thi hành kỷ luật.

 Hỏi: Một chi bộ hoặc cấp ủy Đảng bị xử lý kỷ luật thì xử lý những đảng viên hoặc cấp ủy viên trong tổ chức đó như thế nào?

 Đáp: Điểm 3 của Hướng dẫn thực hiện các quy định kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, ban hành kèm theo Quyết định 25-QĐ/TƯ ngày 24-11-2006 của Bộ Chính trị (khóa X) nêu rõ: thi hành kỷ luật một tổ chức Đảng phải xem xét và quy rõ trách nhiệm của tổ chức đó để xử lý cho đúng. Đồng thời phải xem xét trách nhiệm cá nhân và thi hành kỷ luật đối với những đảng viên vi phạm có liên quan đến vi phạm của tổ chức Đảng đó.

 Khi tổ chức Đảng bị thi hành kỷ luật, thì tất cả thành viên trong tổ chức ấy đều phải chịu trách nhiệm, phải ghi rõ nội dung, hình thức kỷ luật đối với tổ chức vào lý lịch từng thành viên. Những thành viên không tán thành hoặc không liên quan trực tiếp đến quyết định sai lầm của tổ chức đó cũng được ghi rõ vào lý lịch đảng viên.

  

  

  

  

  

 Tag: 2017 2018 trạng 2016