Tìm Hiểu Về Đảng Cộng Sản Việt Nam

 I. Sự thành lập đảng cộng sản việt nam

 Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Tất Thành lấy tên mới là Nguyễn Ái Quốc, tích cực hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và đã nhanh chóng trở thành một chiến sĩ cách mạng nhiệt tình, trở thành đảng viên Đảng xã hội Pháp, chính đảng của giai cấp công nhân Pháp. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin với xiết bao sung sướng như người đi đường đang khát gặp nước uống, đang đói mệt có cơm ăn, đang đi trong bóng tối gặp nguồn ánh sáng, bởi Người coi đây là một cẩm nang thần kỳ cho con đường giải phóng dân tộc. Tại Đại hội Tous tháng 12/1920 Người đã dứt khoát đứng về phía Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

 Bằng trí tuệ sáng suốt, hoạt động và khảo sát cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được chân lý cách mạng giải phóng dân tộc: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người kêu gọi phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa và khẳng định chế độ cộng sản có thể áp dụng ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng. “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương…

 Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.
Giữa những năm 20 của thế kỷ này, Nguyễn Ái Quốc quyết định tìm đường trở về Tổ quốc để phát động và tổ chức phong trào cách mạng của nhân dân, của dân tộc Việt Nam, trước hết là chuẩn bị tổ chức ra một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc ta. Vì muốn làm cách mạng thắng lợi trước hết phải có đảng cách mạng, đảng có vững thì cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững thì phải có lý luận cách mạng, nhất là chủ nghĩa Lênin.

 Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội), một tổ chức “quá độ” đặt cơ sở cho một Đảng Cộng sản về sau. Người ra báo Thanh niên, huấn luyện, đào tạo cán bộ, tổ chức tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Lênin, tư tưởng cách mạng của Người vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam; cách mạng hoá quần chúng và dân tộc, nâng nhân dân và dân tộc ta vươn lên ngang tầm cách mạng của thời đại. Phong trào cách mạng của nhân dân ta ngày càng phát triển mạnh và có ý thức chính trị vô sản rõ rệt.

 Sự kết hợp ngày càng chặt chẽ chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước sục sôi của nhân dân ta đã thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

 Tháng 3/1929, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội, gồm có bảy đảng viên: Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân. Chi bộ chủ trương phải tích cực vận động thành lập một Đảng Cộng sản thay tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

 Ngày 17/6/1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở đảng ở miền Bắc đã họp quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, quyết định xuất bản báo Búa Liềm – cơ quan ngôn luận của Đảng – và cử ra Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.

 Căn cứ vào tình hình kinh tế, xã hội và chính trị ở Đông Dương lúc này, Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng đã xác định tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương trong thời kỳ đầu tiên là tư sản dân chủ cách mệnh. Nhiệm vụ của giai cấp vô sản phải thực hiện khối công nông liên hiệp để:

 – Đánh đuổi đế quốc Pháp.

 – Đánh đổ địa chủ, chế độ phong kiến và các cách bóc lột tiền tư bản, thực hiện cách mạng ruộng đất.

 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929) đã nhận định việc “tổ chức một đảng cộng sản để lãnh đạo toàn cuộc cách mệnh ở Việt Nam là một sự nhu yếu đặc biệt”. Vì vậy sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, các đồng chí tiên tiến hoạt động trong bộ phận Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Trung Quốc nhận định việc thành lập một Đảng Cộng sản là phù hợp với yêu cầu của phong trào cách mạng trong nước và quyết định hành động nhanh chóng để thành lập một đảng cộng sản tập trung, đúng với điều lệ của Đệ tam Quốc tế.

 Ngày 25/7/1929, trong một bức thư của các đồng chí tiên tiến trong bộ phận Việt Nam Cách mạng thanh niên đồng chí hội hoạt động ở Trung Quốc gửi cho Đông Dương Cộng sản Đảng báo tin rằng các đồng chí đó định tổ chức một Đảng Cộng sản bí mật còn “Thanh niên” thì cứ giữ nguyên để chỉnh đốn lại. Các chi bộ cộng sản lần lượt được thành lập ở Nam kỳ, ở Trung kỳ và ở Xiêm. Các đảng viên hoạt động ở Trung Quốc được tập hợp trong một chi bộ mang tên chi bộ An Nam Cộng sản Đảng, chi bộ này đã liên lạc và được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và đã liên lạc với Quốc tế Cộng sản. Theo Hồng Thế Công, An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8/1929. Đảng có cơ sở quần chúng ở các xí nghiệp và trong giới thợ thủ công ở Sài Gòn và một số tỉnh ở phía Nam. An Nam Cộng sản Đảng đã nhiều lần gửi thư cho Đông Dương Cộng sản Đảng bàn việc hợp nhất đảng, song không đạt được sự nhất trí.

 Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929) và An Nam Cộng sản Đảng (8/1929) đã có tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá của đảng Tân Việt. Những phần tử tiên tiến của Tân Việt đã tách ra lập các chi bộ cộng sản, xúc tiến việc chuẩn bị thành lập đảng cộng sản. Tháng 9/1929, bản Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã tuyên bố: “Những người giác ngộ Cộng sản chân chính trong Tân Việt cách mệnh đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt cách mệnh đảng, toàn thể thợ thuyền, dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đông Dương Cộng sản liên đoàn lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh để thực hành cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xoá bỏ nạn người bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính, tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương”.

 Như vậy, trong vòng không đầy bốn tháng (từ giữa tháng 6 đến tháng 9/1929) đã có ba tổ chức đảng ở Việt Nam lần lượt tuyên bố thành lập. Cơ sở tổ chức đảng và cơ sở quần chúng của đảng đã phát triển khắp cả ba miền. Sự ra đời nhanh chóng các tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại ba đảng biệt lập có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước.

 Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương nhấn mạnh rằng: “Xu hướng chia rẽ của các nhóm và sự tranh đấu lẫn nhau sẽ có ảnh hưởng rất hại cho cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương. Nhiệm vụ… tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản… Đảng ấy phải là một đảng độc nhất và ở Đông Dương chỉ có một đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi. Phải hợp nhất lại các phần tử chân chính cộng sản đương ở trong các nhóm cộng sản bây giờ để lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương”

 Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để bàn việc thống nhất thành một đảng. Hội nghị họp tại Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng.

 Người đã nói rõ với các đại biểu về những sai lầm của các Đảng và họ đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để lập ra một đảng duy nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vǎn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các Điều lệ vắn tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội phản đế đồng minh và Hội cứu tế do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.

 Chánh cương vắn tắt của Đảng nêu rõ: “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

 Chánh cương vắn tắt đã nêu ra nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó về các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông, thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hoá.

 Sách lược vắn tắt xác định:

 “1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.

 2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.

 3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.

 4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến,…) thì phải đánh đổ.

 5. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường lối thoả hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”.

 Chương trình tóm tắt nêu rõ:

 “1. Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ nǎng lực lãnh đạo quần chúng.

 2. Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến.

 3. Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản.

 4. Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư bản bậc trung, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến,…

 5. Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác.

 Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”.

 Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu rõ tôn chỉ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.

 Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết Lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức, bóc lột. Lời kêu gọi có đoạn:

 “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để:

 1. Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng.

 2. Làm cho nước An Nam được độc lập.

 3. Thành lập Chính phủ công nông binh.

 4. Tịch thu tất cả các nhà bǎng và cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho Chính phủ công nông binh.

 5. Quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho nông dân nghèo.

 6. Thực hiện ngày làm 8 giờ.

 7. Hủy bỏ mọi thứ quốc trái và thuế thân, miễn các thứ thuế cho nông dân nghèo.

 8. Đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân.

 9. Thực hành giáo dục toàn dân.

 10. Thực hiện nam nữ bình quyền”.

 Hội nghị đã quyết định thành lập cơ quan ngôn luận, tuyên truyền của Đảng là tạp chí Đỏ và báo Tranh Đấu.

 Hội nghị kết thúc, các đại biểu trở về nước ngày 8/2/1930.

 Sau khi về nước các đại biểu đã tích cực thực hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước, lập ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng gồm có bảy uỷ viên: Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Tiếp đến các xứ ủy cũng được thành lập. Đỗ Ngọc Du là Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ, Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ ủy Trung kỳ, và Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ.

 Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Song Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vẫn còn là một đảng riêng lẻ. Việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là một yêu cầu khách quan. Trong bản báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhận định: “ở Trung kỳ, một tổ chức cộng sản mới ra đời gồm những phần tử ưu tú nhất của Đảng Tân Việt… Tổ chức cộng sản mới này vẫn còn là một tổ chức riêng lẻ, nhưng chúng tôi tin chắc rằng sắp đến, tổ chức này sẽ hợp nhất với chúng tôi”.

 Trong bản Tuyên đạt thành lập đảng của mình, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng chủ trương phải hợp nhất với Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng “thành một tổ chức cộng sản ở xứ Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất mới có thể thực hiện cách mạng cộng sản”. Vì thế, sau Hội nghị hợp nhất, Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã yêu cầu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24/2/1930, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu cùng với hai uỷ viên của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hoàng Quốc Việt và Phạm Hữu Lầu cùng Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một đảng cộng sản duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.

 Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của một Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

 Đảng ra đời là một mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX.

 Nguyễn Ái Quốc là người có công đầu trong việc tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, người sáng lập ra Đảng và vạch ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam – một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn. Độc lập tự do là tư tưởng chủ yếu, là viên ngọc quý nhất được khảm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Vừa mới ra đời “Đảng ta liền gương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong”.

 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời giữa lúc chủ nghĩa tư bản diễn ra cuộc khủng hoảng sâu sắc về kinh tế và ở Đông Dương thì “sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết”. Chính vì vậy một làn sóng đấu tranh dân tộc và dân chủ sôi nổi đã diễn ra trong toàn quốc, dẫn đến đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp và tay sai trở nên quyết liệt và đẫm máu. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, vừa mới ra đời đã bước ngay vào cuộc thử thách trên cương vị tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh đó của dân tộc.

 II. Em hãy nêu ý nghĩa & mục đích của việc thành lập đảng

 Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập có ý nghĩa quan trọng:

 – Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở Việt Nam, là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác -Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

 – Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam:

 + Chấm dứt sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam từ đây đã nắm quyền tuyệt đối lãnh đạo cách mạng với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.

 + Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có một đường lối lãnh đạo đúng đắn được nêu ra trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng.

 – Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới.

 – Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị đầu tiên có tính tất yếu, quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam.

 III. Từ ngày thành lập đảng đã mấy lần đổi tên

 Đảng Cộng sản Đông Dương

 Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương

 Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương

 Đảng Lao Động Việt Nam

 Đảng Cộng sản Việt Nam

 IV. Bao nhiêu đảng viên thì được thành lập chi bộ đảng

 Theo quy định tại Khoản 2 Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 có quy định về điều kiện về số lượng để được thành lập chi bộ đảng như sau:

 Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.

 Bên cạnh đó, tại Mục 19 Quy định 29-QĐ/TW năm 2016 thi hành Điều lệ Đảng do Ban Chấp hành Trung ương ban hành, có quy định về điều kiện để được thành lập chi bộ Đảng tại các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp như sau:

 Ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, chi bộ trực thuộc đảng ủy được giao quyền cấp trên cơ sở, được xác định là chi bộ cơ sở phải có các điều kiện sau đây:

 Có các tổ đảng trực thuộc;

 – Chính quyền cùng cấp phải là đơn vị cơ sở, có tư cách pháp nhân, có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh;

 – Do đảng ủy được giao quyền cấp trên cơ sở quyết định sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của cấp ủy cấp trên trực tiếp.

 – Đối với Đảng bộ Quân đội và Đảng bộ Công an thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị.

 V. Bài thơ về ngày thành lập đảng

 Nhà thơ Tố Hữu viết bài thơ “Bài ca mùa xuân 61”, có câu:

 “Trái tim anh đó, rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:

 Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

 Phần cho thơ, và phần để em yêu…”.

 Hoàng Văn Thụ đã viết:

 “Việc nước xưa nay có bại thành

 Miễn sao giữ trọn được thanh danh

 Phục thù trí lớn không hề nản

 Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành”.

 Tố Hữu có bài thơ “Ba mươi năm đời ta có Đảng” – như là một bản anh hùng ca, một biên niên lịch sử của Đảng về quá khứ khổ đau của dân tộc:

 “Thuở nô lệ dân ta mất nước

 Cảnh cơ hàn trời đất tối tăm

 Một đời đau suốt trăm năm

 Chim treo trên lửa, cá nằm dưới dao”.

 Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc

 Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin

 Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp

 Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin.

 Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc

 “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”

 Hình của Đảng lồng trong hình của nước

 Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười.

 (Người đi tìm hình của nước)

 Đảng Cộng sản Việt Nam, là một đó

 Kim Tự Tháp diệu kỳ trong vũ trụ

 Hồ Chí Minh là đỉnh sáng: ngôi sao

 Và thân mình dám ngạo cả trời cao

 Là vai gắn của biết bao đồng chí

 Và nền tảng vững vàng hơn chiến luỹ

 Là nhân dân, là dân tộc quật cường.

 (Gánh – Xuân Diệu)

 VI. Vai trò của nguyễn ái quốc trong việc thành lập đảng cộng sản việt nam

 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3.2.1930 phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đòi hỏi của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, thông qua vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – người đã tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, chuẩn bị tích cực các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng, đồng thời chủ trì việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi của lịch sử, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước kéo dài suốt nửa cuối thế kỷ XIX đến ba thập niên đầu thế kỷ XX. Cách mạng Việt Nam từ đây có cương lĩnh đúng đắn với việc xác định mục tiêu chiến lược, lực lượng và phương pháp cách mạng rõ ràng; có đội tiền phong lãnh đạo mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân và tiêu biểu cho phong trào dân tộc, quyết tâm lãnh đạo toàn dân giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc để tiến tới xã hội cộng sản.

  

  

  

  

 Tag: ty 1930 trò ấn ngành kiểm tra bối bày video slide phim 90 lớp vn dung csvn (3/2/1930) lễ nơi tục tờ mẫu xin ai 1923 giảng khái quát sẩn nam(3/2/1930) (tháng 2/1930) đâu niệm 30 85 80 89 (3/2/1960) quảng ngãi câu hỏi trắc nghiệm đố tài liệu 88 đồ tang giám gian bầu huyện giuộc  vẻ vang tuần 87 86 65 2018 triều 70 2019 12 tphcm nghĩ chào mừng chúc thuật lai ninh thọ pleiku thuận cs hát thái thẩm lào bến tre 1921 án 3/2/1930 viet 3/2 3/2/2019 điện 3/2/2018 powerpoint wattpad tết 13 kịch philippines yên bái y nghia sớm mỹ indonesia 1936 tiếng chứng tỏ mã ubkt cai hải hậu lộc vĩnh giá đoạn bảo, ngày thành lập đcsvn